46
Ngày thứ hai cậu leo lên đỉnh một khối đá gần khu trại. Lính gác để cậu đi; họ đã nghe nói về một phù thủy có khả năng biến thành gió nên không muốn đến gần cậu. Hơn nữa sa mạc như một bức tường thành không thể vượt nổi. Cậu ngồi đó mãi cho đến chiều, nhìn ra sa mạc và lắng nghe trái tim mình. Cả sa mạc cũng lắng nghe nỗi sợ của cậu. Trái tim cậu và sa mạc vốn nói cùng một thứ ngôn ngữ
47
Sang ngày thứ ba viên chỉ huy triệu tập các sĩ quan của mình.
Hắn gọi nhà luyện kim đan đến rồi nói: "Chúng ta ra xem gã kia biến thành gió như thế nào".
"Rồi khắc biết", nhà luyện kim đan đáp.
Cậu dẫn họ đến khối đá hôm qua, yêu cầu mọi người ngồi đó
"Phải đợi khá lâu đấy", cậu nói
"Đâu có gì vội", viên chỉ huy đáp. "Chúng ta là dân sa mạc mà".
48
Cậu nhìn quanh mình. Xa xa phía chân trời kia là núi, đồi cát, đá tảng và các bụi cây leo. Ở một nơi như không thể nào có nổi sự sống mà cây cỏ vẫn cố bám vào đó để sống. Sa mạc này cậu đã đi qua nhiều tháng ròng, thế mà chỉ biết có một phần rất nhỏ của nó. Trong thời gian này cậu đã gặp một người Anh, thấy nhiều đoàn lữ hành, một ốc đảo với năm chục nghìn cây chà là và ba trăm giếng nước; cậu cũng đã chứng kiến cuộc xung đột giữa các bộ tộc.
"Sao bữa nay bạn còn đến đây?" Sa mạc hỏi cậu. "Hôm qua chẳng lẽ mình nhìn nhau chưa đủ à?"
"Bạn giữ người tôi yêu ở một nơi nào đó", cậu đáp. "Cho nên nhìn ngắm biển cát trải dài vô tận của bạn cũng là ngắm nhìn nàng. Tôi muốn quay về với nàng nên cần bạn giúp tôi biến thành gió".
"Yêu nghĩa là gì?" Sa mạc hỏi
"Yêu giống như khi chim ưng bay trên biển cát của bạn. Bởi vì đối với chim thì bạn là một cánh đồng xanh màu mỡ và nó chẳng bao giờ quay về mà không săn được gì. Nó rành rẽ các tảng đá, các đồi cát, núi non của bạn, còn bạn thì hào phóng đối với nó".
"Nó cướp đoạt của tôi thì có", sa mạc đáp. "Tôi nuôi những con mồi của nó nhiều năm ròng, cho chúng uống số nước ít ỏi tôi có được rồi tôi lại chỉ cho nó con mồi ở đâu. Một ngày kia, khi tôi đang vui sướng thấy con mồi của nó chập chững đi trên bãi cát của tôi thì nó từ trên bầu trời cao bổ xuống, cướp đi công trình tôi đã nuôi".
"Nhưng bạn nuôi những con mồi cũng chính vì mục đích ấy thôi", cậu đáp. "Để nuôi chim ưng, rồi chim ưng nuôi người. Và cuối cùng, đến một ngày nào đó con người nuôi lại bãi cát của bạn để các con mồi lại lớn lên. Đó chính là sự vận động của vũ trụ."
"Yêu là thế à?"
"Phải, yêu là thế đấy. Nó biến con mồi thành chim ưng, chim ưng thành người, rồi đến lượt người biến thành sa mạc. Nó biến chì thành vàng rồi đưa vàng trở về với lòng đất".
"Tôi chẳng hiểu bạn nói gì cả", sa mạc nói.
"Nhưng ít ra bạn cũng hiểu được rằng ở một nơi nào đó giữa các đồi cát của bạn có một cô gái đang mong đợi tôi. Chính vì thế mà tôi phải biến thành gió".
Sa mạc làm thinh một lúc rồi mới nói với cậu: "Tôi sẽ cho bạn cát để gió thổi, nhưng một mình tôi thì chẳng làm gì được đâu. Bạn phải yêu cầu gió mới giúp được".
Một làn gió nhè nhẹ nổi lên. Những người Arập quay nhìn cậu; họ không hiểu thứ tiếng cậu nói đó.
Nhà luyện kim đan mỉm cười. Gió mơn man khuôn mặt cậu. Nó nghe được những gì cậu nói với sa mạc, vì gió biết hết mọi chuyện. Nó đi khắp thế giới nhưng không có chỗ nào là khởi điểm, cũng không có nơi nào để gió dừng lại vĩnh viễn.
"Giúp tôi với", cậu nói. "Mới gần đây bạn đã đem đến cho tôi giọng nói của người tôi yêu".
"Ai dạy bạn nói tiếng nói của sa mạc và gió?"
"Trái tim tôi đấy", cậu đáp.
Gió có rất nhiều tên. Ở vùng này người Arập gọi nó là Sirocco và tin rằng nó mang hơi ẩm từ vùng đất ngập nước, nơi cư trú của người da đen; ở vùng đất xa xôi quê hương của cậu người ta gọi nó là Lavante, vì cho rằng nó mang theo cát sa mạc và tiếng thét xung trận của người Mauren; còn ở những vùng xa nữa, phía sau những đồng cỏ cậu vẫn thả cừu, thì người ta cho rằng gió đến từ Andalusia. Nhưng đúng ra gió chẳng đến từ một nơi nào cả, cũng chẳng đi đâu hết; vì thế mà nó mạnh hơn cả sa mạc. Một ngày nào đó có thể sẽ có người trồng được cây trên sa mạc, thậm chí nuôi được cừu ở đó nữa, nhưng sẽ không ai khống chế được gió.
"Bạn không thể thành gió được, vì thể chất chúng mình khác nhau hoàn toàn", gió nói.
"Không đúng", cậu đáp. "Trên đường đi, tôi đã học được những bí mật của thuật luyện kim đan.
Trong người tôi tập hợp đủ cả gió, sa mạc, đại dương, sao trời và mọi thứ trong vũ trụ. Chúng ta đều cùng do một bàn tay tạo ra và có cùng một linh hồn. Tôi muốn được như bạn, có thể đến khắp mọi ngóc ngách, vượt biển cả, thổi bay lớp cát che phủ kho báu của tôi và đem đến đây tiếng nói của người con gái tôi yêu".
"Mấy hôm trước tôi có nghe bạn trò chuyện với nhà luyện kim đan", gió nói. "Ông bảo mỗi sự vật đều có vận mệnh riêng. Con người không thể biến thành gió được".
"Bạn hãy dạy tôi cách biến thành gió một vài khoảnh khắc thôi; như thế bạn và tôi có thể chuyện trò và khả năng vô hạn của người và gió", cậu nói.
Gió thêm hiếu kì; đó là điều chưa từng có. Nó muốn chuyện trò tiếp về những chuyện ấy nhưng không biết phải biến người thành gió ra sao. Thế mà nó vốn làm được khối chuyện cơ đấy! Tạo nên sa mạc này, đánh chìm tàu này, đốn ngã biết bao khu rừng này, thổi qua các thành phố lớn đầy âm nhạc và những âm thanh lạ này. Nó nghĩ rằng mình làm được hết rồi, thế mà một gã trai bảo rằng vẫn còn bao chuyện khác nữa gió có thể làm được.
"Cái đó gọi là tình yêu", cậu nói khi thấy gió sắp xiêu lòng. "Khi yêu, người ta có thể tạo dựng nên tất cả. Khi yêu thì không cần phải hiểu chuyện gì đang xảy ra vì mọi sự diễn ra trong chính mình. Khi yêu thì ngay cả người cũng có thể biến thành gió được. Tất nhiên phải được gió giúp sức".
Gió vốn tự cao nên không hài lòng khi nghe cậu nói. Nó bèn thổi mạnh hơn làm cát bay mù. Nhưng rồi nó phải thừa nhận rằng tuy vẫn đi khắp thế giới thật nhưng cũng không biết làm thế nào để biến được người thành gió, và cũng chẳng biết gì về tình yêu cả.
"Trên đường vòng quanh thế giới tôi thường được nghe người ta nhìn lên trời, nói về tình yêu", gió điên tiết nhìn nhận khả năng hạn chế của mình.
"Có lẽ bạn nên hỏi trời xanh kia xem sao"
"Được, bạn hãy giúp tôi bằng cách tung đầy cát vào không khí, che khuất mặt trời để tôi nhìn thấy mặt trời mà không sợ mù mắt", cậu đáp.
Gió bèn phùng má thổi. Một đám mây cát che kín bầu trời và mặt trời trông chỉ như cái đĩa vàng. Ở doanh trại người ta không nhìn thấy gì nữa cả. Những người dân sa mạc đã quá quen với thứ gió mà họ gọi là Samum này. Đối với họ thì nó còn ghê gớm hơn bão tố trên biển cả, dù họ không biết biển là gì. Ngựa hí vang, khí giới phủ đầy cát.
Trên mỏm khối đá, một viên sĩ quan quay sang nói với viên chỉ huy: "Có lẽ mình nên chấm dứt thôi!"
Họ không còn có thể nhìn thấy cậu nữa. Mặt họ che bằng khăn màu xanh chỉ để lộ những cặp mắt kinh hoàng.
"Chấm dứt thôi", một người khác nói.
"Tôi muốn được chứng kiến sự vĩ đại của Allah", giọng viên chỉ huy đầy thành kính. "Tôi muốn được thấy người biến thành gió như thế nào".
Nhưng hắn ghi nhớ tên hai người vừa tỏ ra sợ hãi kia. Khi lặng gió hắn sẽ cách chức họ vì đàn ông sa mạc không được phép biết sợ là gì.
"Gió bảo tôi rằng bạn biết về tình yêu", cậu nói với mặt trời. "Nếu đúng thế thì bạn cũng phải biết về tâm linh vũ trụ vốn được hình thành từ tình yêu".
"Từ trên cao này", mặt trời đáp, "tôi có thể trông thấy tâm linh vũ trụ. Chúng tôi vẫn cùng hợp lực làm cho cây cỏ lớn lên, khiến cừu biết tìm bóng mát. Từ chỗ này của tôi – xa mặt đất lắm nhé – tôi học được cách yêu. Tôi biết rằng chỉ cần mình xích lại gần mặt đất một chút xíu thôi cũng đủ khiến mọi vật bị hủy diệt và tâm linh vũ trụ cũng không tồn tại được nữa. Cho nên hai chúng tôi thân ái nhìn ngắm nhau; tôi cống hiến ánh sáng và hơi ấm còn nó cho tôi lẽ sống."
"Vậy là bạn biết về tình yêu rồi", cậu nói
"Tôi biết rõ cả tâm linh vũ trụ vì chúng tôi trò chuyện cùng nhau rất nhiều suốt cuộc hành trình bất tận trong vũ trụ. Tâm linh vũ trụ bảo rằng khó khăn lớn nhất của nó là cho tới nay chỉ có thú vật và cây cỏ hiểu được tất cả là một, rằng thật ra sắt chẳng cần gì phải giống như đồng hay đồng giống như vàng. Mỗi loại cứ làm tròn nhiệm vụ của mình thì tất cả sẽ cùng làm thành một bản giao hưởng của hòa bình - nếu như bàn tay đã viết tất cả những điều này ngừng lại vào ngày sáng thế thứ năm. Nhưng mà còn ngày thứ sáu nữa", mặt trời nói.
"Bạn sáng suốt lắm, bởi vì bạn quan sát sự vật từ xa", cậu nói. "Nhưng bạn không biết về tình yêu. Nếu không có ngày thứ sáu thì sẽ không có con người, đồng sẽ mãi là đồng, chì chỉ là chì. Đúng là mọi thứ có vận mệnh của nó và sẽ có một ngày vận mệnh hoàn thành. Rồi mỗi sự vật chuyển hóa thành tốt hơn, mang vận mệnh mới cho đến khi tâm linh vũ trụ chỉ còn là một tổng thể duy nhất".
Mặt trời trầm ngâm một lúc rồi chiếu sáng hơn nữa. Gió rất thú vị với cuộc trò chuyện nên ra sức thổi mạnh hơn để mặt trời khỏi làm mù mắt cậu.
"Chính vì thế mà có thuật luyện kim đan", cậu nói. "Để rồi ai cũng mơ ước tìm kiếm kho báu của mình, rồi muốn được khá hơn kiếp trước. Chì sẽ giữ vai trò của nó cho đến khi thế giới không cần chì nữa, thế là chì sẽ phải biến thành vàng. Đó chính là việc của các nhà luyện kim đan. Họ cho thấy khi chúng ta ra sức tự hoàn thiện thì mọi sự vật quanh ta cũng hoàn mĩ theo".
"Vậy tại sao bạn bảo tôi không biết về tình yêu?" Mặt trời hỏi cậu.
"Vì tình yêu không tĩnh tại như sa mạc, cũng không lang thang cùng khắp thế giới như gió, cũng không phải đứng từ xa nhìn sự vật như bạn vậy. Tình yêu là sức mạnh làm chuyển biến và nâng tâm linh vũ trụ lên cao hơn nữa. Lần đầu tiên, khi nhập vào tâm linh vũ trụ, tôi tưởng nó là tuyệt mĩ rồi.
Về sau tôi mới biết nó là phản ảnh của tạo vật, nghĩa là cũng mang trong nó chiến tranh và đam mê.
Chúng ta nuôi dưỡng tâm linh vũ trụ, và thế giới của chúng ta trở nên tốt hay xấu hơn tùy theo bản thân chúng ta tốt hay xấu hơn. Ở điểm này mới thấy được vai trò sức mạnh của tình yêu, vì khi yêu chúng ta cố trở nên tốt hơn"
"Bạn muốn gì ở tôi?" Mặt trời hỏi
"Tôi muốn bạn giúp tôi biến thành gió", cậu đáp
"Thiên nhiên công nhận tôi là tạo vật, sáng suốt nhất trong muôn loài", mặt trời đáp.
"Nhưng tôi không biết cách biến bạn thành gió"
"Vậy tôi phải hỏi ai?" Mặt trời ngẫm nghĩ một lúc.
Ngọn gió kia đang lắng nghe và nhất định sẽ đi rêu rao cùng khắp rằng khả năng của mặt trời cũng hạn chế thôi. Mặt trời không dễ thoát khỏi cái anh chàng nói thứ ngôn ngữ vũ trụ này.
"Bạn hãy hỏi bàn tay đã ghi chép lên mọi sự", mặt trời đáp.
Gió reo mừng thổi mạnh hơn bao giờ hết, cuốn tung các mái lều, giật đứt dây ngựa buộc. Trên đỉnh tảng đá những người Arập ôm chặt lấy nhau để khỏi bị thổi bay đi. Cậu hướng lòng mình về cái bàn tay đã ghi chép mọi sự. Cậu cảm thấy vũ trụ nín lặng nên cũng nín lặng luôn. Tình yêu trào dâng từ trái tim cậu; lần đầu tiên trong đời cậu lẩm nhẩm một bài kinh không lời, không có cầu xin. Cậu không cám ơn vì lũ cừu đã tìm ra đồng cỏ mượt, không cầu xin bán được nhiều hàng pha lê hơn nữa, hay cầu xin để người con gái cậu yêu chờ đợi cậu trở về. Trong sự yên ắng cậu hiểu rằng sa mạc, gió và mặt trời cũng đang cố hiểu những dấu hiệu được vẽ lên từ bàn tay nọ để tìm ra con đường của mình và để hiểu những gì đã khắc trên phiến ngọc. Cậu biết rằng những dấu hiệu này rải rác trên mặt đất và khắp vũ trụ; nhìn bề ngoài thì chúng chẳng cho thấy một ý nghĩa nào cả nên sa mạc, gió, mặt trời và con người không biết những dấu hiệu ấy được tạo ra để làm gì. Chỉ có bàn tay nọ biết căn nguyên của mọi điều và chỉ riêng nó làm được những phép lạ như thành gió. Bởi bàn tay đó thấu hiểu rằng có một lực siêu phàm đã xoay vần vũ trụ tới mức sáu ngày sáng thế chuyển hóa thành Công trình vĩ đại. Cậu nhập vào tâm linh vũ trụ và nhận biết rằng nó là một phần linh hồn Hóa công và linh hồn Hóa công là linh hồn của chính cậu. Như thế tự cậu cũng có thể làm được phép lạ.
49
Ngày hôm ấy ngọn gió Samum thổi dữ dội chưa từng thấy. Nhiều đời sau người Arập sẽ còn kể về huyền thoại một chàng trai đã không khiếp nhược trước viên chiến tướng sa mạc và đã hoá thành gió, phá hầu như tan hoang cả một doanh trại. Khi lặng gió mọi người nhìn về phía cậu ngồi, nhưng cậu không còn ở chỗ cũ nữa mà đang đứng cạnh môt người lính canh bị cát vùi lấp, tuốt phía bên kia doanh trại. Mọi người khiếp đảm trước trò quỷ thuật này. Nhưng vẫn có hai người cười, đó là nhà luyện kim đan vì ông đã tìm ra được một học trò xuất sắc và viên chỉ huy, vì hắn đã được chứng kiến quyền năng tuyệt vời của Thượng Đế. Hôm sau, viên chỉ huy từ giã nhà luyện kim đan và cậu rồi cho một đoàn lính tháp tùng hai người tới bất kì nơi nào họ muốn.
50
Sau khi đã đi suốt ngày, chiếu tối họ tới được một tu viện Côptic. Nhà luyện kim đan bảo đoàn tháp tùng quay về rồi xuống ngựa.
"Từ đây cậu có thể tự mình đi tiếp được rồi đấy", ông nói. "Chỉ cần ba tiếng nữa là tới Kim Tự Tháp".
"Cám ơn ông đã dạy cháu ngôn ngữ vũ trụ", cậu đáp.
"Ta chỉ gợi cho cậu nhớ lại những gì cậu đã biết từ trước thôi". Nhà luyện kim đan gõ cổng tu viện.
Một tu sĩ mặc toàn đen ra mở cửa. Họ nói với nhau mấy câu bằng tiếng Côptic rồi nhà luyện kim đan bảo cậu vào.
"Ta vừa mới yêu cầu tu sĩ nọ cho phép sử dụng cái bếp một lúc", ông nói.
Họ đi vào bếp. Nhà luyện kim đan nhóm lửa còn tu sĩ nọ lo mang chì đến để nhà luyện kim đan nấy chảy trong một thùng sắt. Khi chì đã hóa lỏng, nhà luyện kim đan móc túi ra quả trứng lạ lùng bằng thủy tinh màu vàng. Ông cạo một chút, mảnh như sợi tóc, lấy sáp bọc lại rồi bỏ vào thùng. Chất lỏng biến thành đỏ như máu. Rồi ông bưng thùng khỏi bếp, để nguội. Trong khi chờ đợi ông trò chuyện với người tu sĩ về cuộc xung đột giữa các bộ lạc.
"Sẽ còn kéo dài lâu", ông nói.
Người tu sĩ tỏ vẻ bực dọc. Từ lâu nay các đoàn lữ hành đã phải nằm ở Gizeh chờ cuộc xung đột kết thúc.
"Nhưng rồi đâu cũng sẽ vào đấy, như ý Thượng Đế muốn cả thôi", tu sĩ nói.
"Đúng thế", nhà luyện kim đan đáp.
Khi thùng nguội, người tu sĩ và cậu nhìn vào mà kinh ngạc. Chì đã khô lại dưới đáy thùng hình tròn, song không phải là chì nữa mà là vàng.
"Một ngày nào đó cháu cũng sẽ làm được như vậy chứ?" Cậu hỏi
"Đó là vận mệnh của ta chứ không phải của cậu", nhà luyện kim đan đáp. "Ta làm chỉ để cho cậu thấy rằng có thể làm được".
Rồi ông chia chỗ vàng đó làm bốn phần.
"Để cám ơn thầy", ông nói và đưa tu sĩ một phần.
"Thế là quá nhiều so với những gì tôi đã làm", tu sĩ nói.
"Thầy chớ nói thế nữa, kẻo Đời nghe thấy thì lần tới thầy sẽ được ít hơn đấy".
Rồi ông quay sang cậu.
"Phần này để đền cậu số tiền đã trả cho viên tư lệnh".
Cậu muốn nói rằng như thế là quá nhiều so với số tiền nọ song lại thôi, vì vừa được nghe những gì nhà luyện kim đan nói với người tu sĩ.
"Phần này tôi giữ", ông nói và cất đi. "Vì tôi còn phải vượt sa mạc và vùng có chiến sự để về nhà".
Phần thứ tư ông đưa cho tu sĩ "Phần này để phòng khi cậu nhỏ đây cần đến".
"Nhưng mà cháu sắp tìm thấy kho báu rồi còn gì", cậu đáp
"Ta tin rằng cậu sẽ tìm thấy", nhà luyện kim đan nói
"Vậy phần cháu thêm làm gì nữa?"
"Vì cậu đã hai lần mất sạch: một lần bị gã lưu manh bịp, một lần trả thù cho viên chỉ huy nọ. Ta là một lão già Arập mê tín, tin vào châm ngôn nước mình. Châm ngôn đó như thế này: "Những gì đã xảy đến với anh một lần có thể không bao giờ xảy ra nữa; nhưng những gì đã xảy ra hai lần thì nhất định sẽ thêm lần thứ ba".
Rồi họ lại lên ngựa.
51
"Trước khi chia tay ta muốn kể cho cậu nghe một câu chuyện về giấc mơ", nhà luyện kim đan nói.
Cậu bèn cho ngựa chạy sát lại gần.
"Ở La Mã cổ đại, vào thời hoàng đế Tiberius, có một ông già kia có hai người con trai. Một người con đi lính và phải đi đến những vùng đất xa xôi nhất của đế quốc. Người con kia là thi sĩ và cả La Mã yêu thích những bài thơ tuyệt vời của anh ta. Một đêm kia ông bố nằm mộng thấy thiên thần hiện đến bảo rằng những câu nói của một trong hai người con ông được cả thế giới biết và được truyền tụng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Người cha thức giấc, thầm cảm tạ Thượng Đế và khóc vì sung sướng bởi cuộc đời quá hào phóng đã cho ông biết những điều mà mọi người cha đều tự hào. Không lâu sau đó ông chết vì muốn cứu một đứa trả khỏi bị xe ngựa cán. Vì ông sống ngay thẳng, đàng hoàng nên được lên ngay thiên đường. Ở đây ông gặp thiên thần báo mộng cho ông.
"Ông là một người tốt", thiên thần nói. "Ông sống thương yêu người, ông chết vì làm việc phải. Do đó ta sẽ thỏa mãn bất cứ điều gì ông ước muốn".
"Cuộc đời cũng đã rất ưu đãi tôi", ông già đáp. "Ngày nọ, ngài đến với tôi trong giấc mơ thì tôi thấy mọi công lao của mình đã được đền bù vì thơ của con tôi sẽ còn được truyền tụng hàng trăm năm sau nữa. Cá nhân tôi không mong muốn gì cả, nhưng người cha nào chẳng tự hào về đứa con mình đã nuôi dạy. Thành ra tôi muốn rằng, trong một tương lai xa, được nghe những câu nói của con tôi".
Thiên thần bèn vuốt vai ông và hai người bước vào tương lai xa. Cả nghìn người đứng quanh họ ở một quãng trường rộng lớn, nói với nhau bằng một thứ tiếng lạ.
Ông già khóc vì sung sướng "Tôi biết mà! Thơ của con tôi hay và trở thành bất tử mà", ông xúc động nói với thiên thần.
"Tôi rất muốn biết người ta đọc bài thơ nào của nó ở chốn này".
Thiên thần âu yếm nắm tay ông già rồi hai người cùng ngồi xuống một trong những ghế dài trên quãng trường.
"Thơ của con trai ông rất được yêu chuộng ở La Mã xưa", thiên thần đáp. "Nhưng sau triều đại của Tiberius thì thơ của con ông cũng bị rơi vào lãng quên. Những lời mà người ta đang nói đây là của anh con trai đi lính cơ".
Ông già sửng sốt nhìn thiên thần.
"Anh con trai đó phục vụ ở một nơi xa và lên đến chức tư lệnh. Anh ta cũng là một người tốt và chính trực. Một ngày nọ người hầu của anh ốm nằm chờ chết. Người con ông nghe nói có một tu sĩ Do Thái chữa được bệnh tật nên đi hết ngày này sang ngày khác để tìm tu sĩ đó. Trên đường đi anh được biết người mình tìm đó là con của Thượng Đế. Anh gặp những người đã được tu sĩ nọ chữa lành bệnh và họ dạy anh những điều tu sĩ kia đã truyền dạy. Rồi, tuy là một chiến binh La Mã, anh đã cải đạo. Không lâu sau đó anh gặp nhà tu sĩ. Anh kể ông nghe về bệnh tình của người hầu. Nhà tu sĩ tỏ ý sẵn sàng đi đến nhà anh. Nhưng con trai ông là một người một đạo nên khi nhìn vào mặt nhà tu sĩ anh biết chính đó là con Thượng Đế. Và đây là những lời con trai ông lúc ấy đã nói với tu sĩ và sẽ đời đời được truyền tụng:
"Lạy Chúa, con không xứng đáng để được đón Người vào nhà. Xin Chúa hãy phán truyền cho một tiếng thì kẻ đầy tớ của con sẽ khỏi bệnh ngay."
"Bất kể giàu hay nghèo, sang hay hèn, ai cũng đều có một vai trò chính trong lịch sử thế giới. Có điều phần nhiều người ta không biết đó thôi", nhà luyện kim đan nói rồi thúc ngựa đi.
Cậu mỉm cười. Làm sao cậu ngờ được rằng cuộc đời một kẻ chăn cừu lại có thể được xem là quan trọng nhường ấy.
"Vĩnh biệt!" Nhà luyện kim đan nói
"Vĩnh biệt!" Cậu đáp
Cậu đi suốt hai tiếng rưỡi trên sa mạc, cố lắng nghe trái tim mình, vì nó sẽ cho cậu biết chính xác kho tàng chôn giấu chỗ nào.
"Kho tàng của cậu ở đâu thì trái tim cậu cũng ở đó", nhà luyện kim đan đã bảo cậu thế.
Nhưng tim cậu lại nói về những chuyện khác. Nó hãnh diện kể về một gã chăn cừu đã rời bỏ đàn cừu của mình để theo một giấc mộng mà gã đã mơ thấy hai lần. Nó nói về vận mệnh và về những người cũng đã từng lên đường đi tìm những vùng đất xa xôi và đàn bà đẹp, đương đầu với những người đương thời cùng những thế giới quan và định kiến của họ. Suốt dọc đường nó kể về những chuyến viễn du, những khám phá lớn, những sách vở và những biến chuyển lớn lao. Chỉ vào lúc cậu định leo lên một đồi cát, đúng ngay giây phút đó, không hơn không kém một giây, tim cậu mới thì thào: "Hãy ghi nhớ nơi mà cậu sẽ khóc. Tôi cũng sẽ có mặt ở đó và đó cũng là nơi chôn giấu kho báu của cậu đấy".
Cậu từ từ leo lên đồi cát. Trăng lại tròn vành vạnh giữa bầu trời đầy sao. Cậu đã rời ốc đảo được đúng một tháng. Đồi cát chỗ sáng chỗ tối dưới ánh trăng trông như mặt biển gợn sóng làm cậu nhớ lại cái lần mình buông cương để ngựa đi tìm dấu hiệu mà nhà luyện kim đan đòi hỏi. Ánh trăng soi trên sa mạc im ắng và soi cả những chuyến viễn du của những người đi tìm kho báu.
Lát sau, khi cậu leo lên được đỉnh đồi cát thì tim cậu rộn lên mừng rỡ. Kim Tự Tháp Ai Cập nằm kia, đồ sộ và hùng vĩ trên mặt sa mạc loáng ánh trăng tròn. Cậu quì xuống và khóc vì ngợp trong hạnh phúc. Cậu tạ ơn Thượng Đế đã khiến cậu tin vào vận mệnh mình cũng như đã khiến cậu gặp được vị vua già, chủ cửa hàng pha lê, anh chàng người Anh và nhà luyện kim đan. Nhất là đã khiến cậu gặp được cô gái sa mạc và cô đã cho cậu biết rằng tình yêu không bao giờ cản trở người trai theo đuổi vận mệnh mình. Các Kim Tự Tháp hùng vĩ có từ hàng nghìn năm trước như nhìn xuống cậu. Nếu muốn cậu có thể quay về ốc đảo ngay bây giờ, lấy Fatima và sống cuộc đời của người chăn cừu bình thường. Ngay cả nhà luyện kim đan cũng sống trong sa mạc, dù ông biết thứ ngôn ngữ vũ trụ và biến được chì thành vàng. Cậu chẳng cần phải chứng tỏ với một ai kiến thức và tài sản của mình. Trên bước đường thực hiện vận mệnh mình cậu đã học được mọi điều cần thiết và đã được sống như cậu hằng mơ tưởng. Bây giờ thì cậu đã tới được nơi chôn giấu kho báu rồi. Nhưng một việc chỉ được coi là hoàn tất khi nào đạt mục tiêu.
Cậu đã khóc trên đồi cát này. Nhìn xuống mặt cát cậu thấy một con bọ hung đang bới chỗ nước mắt cậu vừa rơi xuống. Trong những ngày ở sa mạc cậu học được rằng ở Ai Cập bọ hung là dấu hiệu của Thượng Đế. Thế là thêm một điềm báo nữa! Cậu bắt đầu đào, vừa đào vừa nhớ tới điều người bán hàng pha lê từng nói: ai cũng có thể xây được Kim Tự Tháp trong vườn của mình. Bây giờ thì cậu thấy có bỏ cả đời để chồng đá lên nhau cũng chẳng bao giờ thành nổi một Kim Tự Tháp được.
Cậu đào suốt đêm chỉ một chỗ đó mà chẳng tìm thấy gì. Kim Tự Tháp hàng nghìn năm kia lặng lẽ nhìn xuống cậu. Nhưng cậu không bỏ cuộc; cậu tiếp tục vừa đào vừa phải cản ngọn gió cứ lùa cát vào lại lỗ trũng. Hai tay cậu mỏi nhừ, tấy lên nhưng cậu tin vào trái tim mình. Nó đã bảo cậu phải đào chỗ những giọt nước mắt rơi xuống.
Rồi cậu chợt nghe có tiếng chân trong lúc đang moi đá. Có mấy bóng người đang lại gần. Họ quay lưng về phía ánh trăng nên cậu không thấy được mặt mũi lẫn mắt họ.
"Mày làm trò gì đấy?" Một cái bóng hỏi.
Cậu không đáp mà thấy sợ, sợ mất kho báu
"Bọn ta chạy lạc vì các bộ lạc đánh nhau, nên rất cần tiền", một bóng khác nói. "Mày giấu gì ở đấy?"
"Tôi chẳng giấu gì cả", cậu đáp. Nhưng một cái bóng khác túm lấy cậu, kéo ra khỏi hố. Một tên khác lục túi cậu, thấy thỏi vàng.
"Nó có vàng trong người", gã đó kêu.
Ánh trăng rọi vào mặt gã và cậu nhìn thấy thần chết trong đôi mắt họ.
"Chắc là nó còn giấu trong cát nhiều vàng nữa", một gã khác nói.
Chúng bắt cậu đào tiếp, nhưng rút cục vẫn chẳng thấy gì hết. Thế là chúng xúm lại tẩn cậu, mãi cho đến khi mặt trời ló dạng. Quần áo cậu rách bươm và cậu cảm thấy mình gần kề cái chết.
"Đằng nào mình cũng sẽ chết thì tiền còn quí báu gì nữa?"
Cậu nghĩ và nhớ lại nhà luyện kim đan đã từng nói: "Ít khi tiền cứu được người ta khỏi chết"
Thế là cậu thú thực: "Tôi tìm kho báu", rồi với đôi môi dập nát và sưng vù cậu kể cho bọn kia rằng đã hai lần mơ thấy một kho tàng giấu gần Kim Tự Tháp này. Gã có vẻ là đầu sỏ lũ này im lặng một lúc rồi bảo đồng bọn: "Thả nó ra. Nó hết sạch rồi. Chỗ vàng này chắc là nó lấy cắp được".
Cậu úp mặt xuống cát
"Thôi bọn mình đi", tay đầu sỏ nói.
Rồi gã quay sang cậu: "Mày không chết được đâu. Mày sẽ còn phải sống để nhớ rằng đừng nên ngu xuẩn thế. Hai năm trước, ngay chính chỗ này, tao cũng đã nhiều lần mơ rằng tao phải đi Tây Ban Nha, tìm một ngôi nhà thờ làng đã sụp lở mà lũ chăn cừu thường đưa cừu vào đó làm chỗ trú chân.
Trong phòng thay áo lễ có mọc một cây cầu, dưới rễ nó chôn giấu một kho vàng. Tao đâu có ngu để chỉ vì một giấc mơ mà vượt sa mạc"
Rồi chúng bỏ đi. Cậu lảo đảo đứng dậy, nhìn về phía Kim Tự Tháp. Tháp mỉm cười với cậu, cậu cười lại. Tim cậu tràn ngập niềm vui. Giờ thì cậu tìm thấy kho báu rồi.
Cậu tên là Santiago. Cậu đến ngôi nhà nhỏ hoang phế kia khi trời vừa nhá nhem tối. Cây dâu mọc trong cái phòng thay áo lễ trước kia vẫn còn đó. Qua cái mái đã sập một nửa người ta vẫn có thể thấy được sao trời. Cậu nhớ lại cách đây không lâu mình và lũ cừu đã ở đây một đêm rất yên bình – không kể giấc mộng. Bây giờ không có bầy cừu bên cậu nữa; trong tay cậu là một cái xẻng. Cậu nhìn lên trời một lúc, rồi lấy từ túi ra một chai vang, nhâm nhi. Cậu nhớ lại cái đêm nhìn trăng trong sa mạc, uống vang với nhà luyện kim đan; nhớ lại những chặng đường đã trải qua và cái phương cách lạ thường Chúa chọn để chỉ cho cậu kho tàng. Nếu không tin vào điều cậu hai lầnmơ thì cậu sẽ không bao giờ gặp bà lão Zigeuner, nhà vua già, gã bịp và những người khác trên con đường dài rong ruổi.
"Danh sách những người và việc mình đã gặp thì dài lắm. Nhưng đã có dấu hiệu chỉ mình hướng đi thì mình không thể nhầm lẫn được", cậu tự nhủ.
Rồi cậu thiếp đi mà không hay. Khi mở mắt thì mặt trời đã lên cao. Cậu bắt đầu đào bới dưới gốc cây dâu
"Ông đúng là một lão phù thủy", cậu thầm nghĩ. "Ông biết trước cả rồi. Thậm chí ông đã để lại cả vàng cho cháu để cháu có tiền đi đường, trở lại ngôi nhà thờ này. Người tu sĩ Côptic đã cười khi thấy cháu quay lại tu viện với quần áo rách bươm. Chẳng lẽ ông không thể miễn cho cháu những khốn khổ đó được à?"
"Không", cậu nghe gió đáp. "Nếu ta cảnh báo cậu thì cậu sẽ chẳng bao giờ thấy được Kim Tự Tháp. Mà chúng đẹp biết bao, phải thế không?"
Đó là tiếng nhà luyện kim đan.
Cậu cười, đào tiếp. Sau nữa giờ lưỡi xẻng chạm phải vật gì cứng. Một giờ sau cậu đứng trước một cái hòm đầy tiền vàng cổ Tây Ban Nha. Có cả đá quí, mặt nạ vàng đính lông trắng, đỏ và cả những pho tượng cẩn ngọc. Đó là những thứ cướp bóc được trong thời kì xâm lược mà đất nước này đã quên từ lâu và những kẻ đi xâm lược cũng không kể lại cho con cháu họ.
Cậu moi bị lấy ra hai viên Urim và Thummim mà cậu chỉ dùng có mỗi một lần, vào một buổi sáng nọ ở bãi chợ. Đời cậu và con đường cậu trải qua đều rải đầy dấu hiệu. Cậu bỏ hai viên đá vào hòm.
Chúng cũng là một phần của kho tàng vì chúng gợi cậu nhớ đến nhà vua già mà cậu hẳn sẽ không bao giờ gặp lại nữa.
"Đúng là cuộc đời rất hào phóng với người nào chịu theo đuổi vận mệnh mình", cậu nghĩ. Rồi cậu nhớ rằng phải đến Tarifa để trả bà lão Zigeuner một phần mười kho báu.
"Sao họ tinh ranh thế nhỉ? Có lẽ vì họ đi nhiều", cậu nghĩ.
Gió lại thổi, gió Levante từ châu Phi. Lần này gió không mang lại mùi sa mạc hay mối đe dọa xâm lược của người Mauren, mà mang đến một mùi thơm cậu rất quen, và một nụ hôn nhẹ nhàng chạm trên môi cậu. Cậu mỉm cười. Lần đầu tiên cô ấy hôn mình.
"Anh đến đây, Fatima ", cậu nói.