Chương VIII

BÁT CHI ÐẠO (CHÁNH ĐẠO)
(Aṭṭhaṅgika-magga)

Bát chi đạo là chặng cuối của con đường thanh-tịnh độc nhất (ekayāno maggo visuddhiyā).

Bát chi đạo còn được gọi là con đường giữa (majjhima magga), con đường lìa bỏ hai cực đoan là lợi-dưỡng (ham thích hưởng-thụ trần-dục) và khổ-hạnh (những pháp làm khổ thân).

Bát chi đạo là con đường có tám nhánh, đó là:

Chánh-kiến (sammā diṭṭhi).
Chánh tư-duy (sammā saṅkappa).
Chánh-ngữ (sammā vācā).
Chánh-nghiệp (sammā kammanṭā).
Chánh-mạng (sammā ājīva).
Chánh tinh-tấn (sammā vāyāmo).
Chánh-niệm (sammā saṭi).
Chánh-định (sammā samādhi).

Nói gọn hơn, tám chi đạo được gom lại thành ba phần cơ-bản của sự giải-thoát khổ là:

Giới bao gồm: chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng.
Ðịnh bao gồm: chánh tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
Tuệ bao gồm: chánh-kiến, chánh tư-duy.

Thông-thường, tám chi này không xuất hiện đầy đủ trong một tâm thiện, có năm hoặc sáu chi trong một tâm thiện mà thôi, còn trong bất-thiện pháp, thì chẳng có chi nào. Nhưng sẽ có đủ trong tâm chứng-đắc đạo-quả siêu-thế khi nhận Níp-bàn làm cảnh.

Nếu phân-tích theo bảy thanh-tịnh thì:

Chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng hiện rõ ở giai-đoạn đầu là giới-tịnh.
Chánh tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định hiện rõ ở giai-đoạn tâm-tịnh.
Chánh kiến, chánh tư-duy hiện rõ ở bốn giai-đoạn: kiến-tịnh, đoạn-nghi tịnh, đạo-phi-đạo tri-kiến tịnh và hành-tri-kiến tịnh;
Cả tám chi đạo đều có mặt trong giai-đoạn tri-kiến thanh-tịnh.

Trước tiên nên nói về ba chi: chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng được gom lại thành giới-uẩn.

GIỚI-UẨN

Giới là điều-kiện cần thiết phải có để chứng-đắc các thượng-pháp. Theo Visuddhi-magga (Thanh tịnh đạo), nhờ sự hỗ-trợ của giới viên-mãn, hành-giả chứng-đắc được ba minh (ṭevijjā). Ðiều-kiện cần thiết để chứng-đắc sáu thông là do định viên-mãn. Ðắc được bốn Vô-ngại-giải (paṭisambhidā) là do tuệ viên-mãn.

Ba minh là:

1- Pubbenivāsānussaṭiññāṇa: Túc-mạng minh, là nhớ lại nhiều kiếp sống trước đây.
2- Cuṭūpadāṭaññāṇa: Sanh-tử minh, là biết được sự sanh-tử luân-hồi của người khác.
3- Āsavakkhayaññāṇa: Lậu-tận minh, là biết các loại phiền-não, uế-trược đã được trừ-tuyệt.

Sáu thông là:

1- Iddhividhi: Thần-túc thông, là biến hóa ra nhiều cách như đi trên hư-không, đi xuống đất, rút ngắn đường...
2- Dibba soṭa: Nhĩ-thông. là nghe được những loại âm thanh vi-tế.
3- Ceṭopariññāṇa: Tha-tâm thông, là với tâm mình biết được tâm người khác.
4- Pubbenivāsanussaṭi: Túc-mạng thông.
5- Dibba cakkhu: Thiên-nhãn thông.
6- Āsavakkhayaññāṇa: Lậu-tận thông.

Bốn Tuệ vô-ngại (paṭisambhidāñāṇa) là:

1- Aṭṭhappaṭisambhidāñāṇa: Tuệ vô-ngại trong nghĩa lý.
2- Dhammappaṭisambhidāñāṇa: Tuệ vô-ngại trong pháp.
3- Niruṭṭipaṭisambhidāñāṇa: Tuệ vô-ngại trong từ-ngữ.
4- Paṭibhānappaṭisambhidā: Tuệ vô-ngại trong biện-luận về pháp.

Tám chi đạo được Ðức Thế-tôn gọi là con đường giữa vì:

Giới có công-năng tránh xa cực đoan mê đắm trong dục-lạc.
Ðịnh có công-năng tránh xa cực đoan khổ-hạnh và
Tuệ là sự tu-tập vượt lên trên hai cực đoan ấy.

Mặt khác, Giới là phương tiện vượt thoát các đọa-xứ, khổ-cảnh. Ðịnh là phương tiện vượt ra dục-vọng và tuệ là phương tiện vượt ra khỏi luân-hồi khổ. Lại nữa, đắc được thánh quả Dự-lưu, Nhất-lai là nhờ giới viên-mãn, đắc quả Bất-lai nhờ định viên-mãn và quả A-la-hán nhờ tuệ viên-mãn.

Theo ý-nghĩa thông-thường thì:

- Chánh-ngữ là nói lời đúng đắn, tức là: không nói dối, không nói đâm-thọc, không nói hung-ác, không nói nhãm-nhí.
- Chánh-nghiệp là việc làm đúng của thân là: không sát-sanh, không trộm-cắp, không dâm-dục.
- Chánh-mạng là nuôi mạng chân-chánh.

- Chánh-ngữ ngăn trừ những ác bất-thiện nghiệp sanh-khởi qua lời nói, tức làm làm cho lời nói được thanh-tịnh.
- Chánh-nghiệp ngăn trừ những ác bất-thiện nghiệp sanh-khởi qua hành động của thân, tức làm làm cho thân được thanh-tịnh.
- Chánh-mạng ngăn trừ những ác bất-thiện nghiệp sanh-khởi qua ý, tức là làm cho ý được trong sạch.

Chánh-mạng là sự nuôi mạng trong sạch, là xa lánh những nghề tội-lỗi như: Buôn bán vũ khí để sát hại súc vật khác như: đao, kiếm, cung, tên...; Buôn bán chất độc; Buôn bán rượu, chất say; Buôn bán người, thú. Không dùng lời lẽ để lừa gạt người khác nhằm mục-đích thân đoạt tài-sản để nuôi mạng sống.

Ðó chỉ là sự trong sạch bên ngoài, cần phải có sự trong sạch bên trong, là ý không tầm cầu thụ-hưởng, không đắm-nhiễm trong dục.

Một người nhờ tích-trữ thiện-pháp trong quá-khứ, kiếp này được sanh vào gia tộc cao sang, giàu có. Tất nhiên, người này không cần phải buôn bán, cũng chẳng cần phải lừa gạt ai để nuôi mạng sống mình. Nhưng y thích-thú trong dục, tầm cầu trong dục, để rồi dẫn đến thân, ngữ của y rơi vào ác bất-thiện, để chiếm hữu địa vị cao, lợi-đắc tốt ...

Ðiển hình là Ajāṭasaṭṭu, là một vị Hoàng-tử thì cần gì phải lo lắng đến sự nuôi mạng, nhưng vẫn rơi vào tội-lỗi bởi ham thích vương-quyền, đế vị. Dĩ nhiên có sự xúi giục của Devadaṭṭa, nhưng lỗi không phải hoàn toàn ở Devadaṭṭa. Devadaṭṭa có thuyết-phục, có xúi giục nhưng chấp-thuận làm theo hay không là do tâm của Ajāṭasaṭṭu.

Trong Paṭisambhidāmagga có giải thích như sau:

Chánh-ngữ: do ý-nghĩa là đang sát trừ tà-ngữ.
Chánh-nghiệp: do ý-nghĩa là đang sát trừ tà-nghiệp (của thân).
Chánh-mạng: do ý-nghĩa là trong sạch, đang lìa khỏi sự sống sái quấy (gọi là tà-mạng).

Sống sái quấy là sống trong sự đắm-nhiễm, tầm cầu dục-lạc, sống trong sự mê-muội, lầm-lạc.

Ba điều về thân (không sát-sanh, không trộm-cắp, không làm sái quấy trong dục (kāmesu micchācārā), bốn về ngữ (không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói ác, không nói phù-phiếm), và chánh-mạng. Tám điều này được gọi là Chánh-hạnh (ujupaṭi-panna) hay gom lại là Giới (sīla).

Hành giả cần lưu ý kỹ về giới thứ ba trong năm giới, thông-thường người Phật tử chỉ nghĩ đến "tà dâm", ý-nghĩa của giới này rộng hơn nhiều, đó là những gì làm tâm đắm-nhiễm trong năm trần-cảnh.

"Này chư tỳ-khưu! Trong giới-luật bậc Thánh, được xem là khóc than (ruṇṇaṃ), đó là ca vịnh (gīṭaṃ).
Ðược xem là điên loạn (ummaṭṭakaṃ), đó là nhảy múa (naccaṃ).
Ðược xem là trẻ thơ (komārakam) đó là cười quá đáng để lộ cả răng". (Tăng chi-kinh)

Như thế, ca hát, nhảy múa được xem là ở ngoài giới-luật của bậc Thánh, tức là làm sái quấy trong dục.

Vì sao ba chi: Chánh-ngữ, Chánh-nghiệp, Chánh-mạng được gom vào Giới-uẩn?

Chánh-ngữ có nhiệm-vụ là ngăn trừ (viraṭi) tà-ngữ, có biểu hiện là sự thành-tựu từ bỏ tà ngữ.

Chánh-nghiệp có nhiệm-vụ ngăn trừ tà-nghiệp, có biểu hiện là sự thành-tựu từ bỏ tà-nghiệp.

Chánh-mạng có nhiệm-vụ ngăn trừ sự nuôi mạng sái quấy (tà-mạng), được biểu hiện qua sự thành-tựu từ bỏ tà-mạng.

Ba chi này được gom vào giới-uẩn là do tính đồng nhất.

Ngũ giới, bát quan trai giới, mười giới sadi, bốn Thanh-tịnh giới của tỳ-khưu thì như thế nào? Gọi chung là giới, nhưng khi phân-tích, mỗi loại có ý-nghĩa khác nhau như:

Năm giới là thường-giới. Còn tám giới trong sạch (bát quan trai giới), mười giới Sa-di), 227 giới của tỳ-khưu là học-giới (pariyaṭṭi sīla).

Ðức Thế-tôn chế-định học-giới nhằm mục-đích ngăn trừ, diệt tắt những lậu-hoặc chưa sanh hoặc đang sanh, đồng thời mang đến an-lạc cho chư tỳ-khưu, làm phát-sanh đức-tin cho người chưa có đức-tin, làm tăng-trưởng đức-tin cho người đang có đức-tin. Nên Ðức Thế-tôn có dạy rằng:

"Vị tỳ-khưu trong pháp-luật này, chấp-nhận học-giới, ghê-sợ trước những học-giới nhỏ nhặt...". (Trường bộ-kinh)

Vậy Giới là gì? Là sự cố ý xa lánh tội-lỗi của thân, ngữ, ý.

"Ceṭanāhaṃ bhikkhave sīlaṃ vadāmi - Này chư tỳ-khưu! Như-lai tuyên thuyết: 'sự cố ý' là giới".

Sự cố ý (ceṭanā) lánh xa, không vi-phạm vào ác-nghiệp, bất-thiện nghiệp là giới.

Ðiều này hàm ý giới được trong sạch do xa lìa tham, sân, si, tâm an-trú trong vô-tham, vô-sân và chánh-kiến.

"Từ bỏ tham, vị ấy an-trú với tâm vô-tham". (Trường bộ-kinh)

Ý-nghĩa của giới ra sao? Nguyên ngữ của sīla (giới) là sīlana, nghĩa là kết hợp. Sự kết hợp (sīlana) có hai đặc-tính:

- Giới là sự phối hợp (samādhāna) thuần nhất, nghĩa là giới làm trong sạch cả ba phần: thân, ngữ, ý. Nếu vi-phạm một điều về thân như sát-sanh, đồng nghĩa ngữ và ý cũng bị hư hoại. Ðiều này rất tế nhị, hành-giả cần suy-nghiệp kỹ, đức Phật dạy rằng:

"Manopubbaṅgamā dhammā
Manoseṭṭhā manomayā
Manasā ce paduṭṭhena
Bhāsaṭi vā karoṭi vā
Taṭo naṃ dukkhamanveṭi
Cakkaṃ’ vā vahaṭo padaṃ

Ý dẫn đầu các pháp
Ý là chủ, ý tạo
Nếu nói hay làm với ý ác
Ðau-khổ sẽ theo sau
như bánh xe lăn theo chân vật kéo". (Pháp Cú : 1)

Thân và ngữ do ý dẫn dắt, khi sát-sanh là do ý sân làm chủ. Khi ý sân cường-mạnh, nó đủ sức dẫn dắt cả thân lẫn ngữ, do đó có trường-hợp vừa mắng nhiếc vừa sát hại. Nếu như sân không đủ sức mạnh, nó chỉ khiến thân biểu lộ ra, nhưng rõ ràng ngữ thiện không thể có, ngữ ác đang có mặt, nó chưa biểu lộ ra vì chưa đủ sức. Thế thôi.

Các giới khác cũng nên hiểu theo lý này.

- Giới là nền-tảng (ādhāra) để nâng đở (upadhā-rana) nghĩa là giới là nền-tảng để nâng đở các thiện-pháp.

Những người hiểu theo nguyên-ngữ (chữ gốc) chỉ chấp-nhận hai nghĩa này. Song cũng có nhiều người bình-luận về ý-nghĩa của giới là cái đầu (sirasa), là mát mẻ (sīṭala). Ngoài ý-nghĩa của nguyên ngữ, giới còn được hiểu theo ý-nghĩa "chế-ngự" . Có bốn cách chế-ngự:

1- Chế-ngự của giới bổn pāṭimokkha: là tuân thủ theo học-giới được Ðức Thế-tôn chế-định: "điều này nên làm, điều này không nên làm...".

"Này chư tỳ-khưu! Như-lai nói thân-hành có hai loại: Nên hành-trì, không nên hành-trì. Ngữ hành có hai loại: nên hành-trì, không nên hành-trì. Ý hành có hai loại: nên hành-trì, không nên hành-trì...". (Trung bộ-kinh-kinh Sevitabba-asevitabba)

2- Chế-ngự bằng niệm tỉnh-giác (sampajaññā): là phòng-hộ môn-quyền. Như: "Vị tỳ-khưu phòng-hộ con mắt, sống với chế-ngự mắt". (Trường bộ-kinh)

3- Chế-ngự bằng tri-kiến (sammādiṭṭhi).

"Này Ajita! Những bộc lưu tuôn chảy
Ðược ngăn chặn nhờ niệm
Ta tuyên bố bộc-lưu
Bị chặn đứng do tuệ". (Tương ưng-kinh)

4- Chế-ngự bằng kham nhẫn.

Phận-sự của giới là gì?

Giới có phận-sự là chấm dứt những việc làm sái quấy, liên-hệ đến bất-thiện pháp.

Nhân sanh-khởi và làm tăng-trưởng giới chính là:

Hổ-thẹn tội-lỗi (hiri: tàm).
Ghê-sợ tội-lỗi (oṭṭappa: quí).

Hổ-thẹn tội-lỗi ví như khúc cây dính đầy phẩn, người cầm phải nó, cảm thấy mắc cở khi có người nhìn thấy được. Cũng vậy, người có ý phá giới, nhưng khi nghĩ lại, "nếu có người biết được, ta sẽ vô cùng hổ thẹn", vì thế không vi-phạm điều-học.

Trong chú giải Pháp-cú kinh: Có vị tỳ-khưu đi đến trú-xứ của bà tín nữ Māṭikamāṭā, bà chứng-đắc A-na-hàm, có tha-tâm thông. Vị tỳ-khưu suy nghĩ: "Bà tín nữ này có tha-tâm thông, nếu ta dể-duôi, bà ấy sẽ bắt được ví như người bắt được tên trộm quả tang".

Vị ấy phòng-hộ ý không dám dể-duôi, nỗ-lực hành-đạo, trong thời gian ngắn sau đó, vị ấy chứng quả A-la-hán.

Ghê-sợ tội-lỗi ví như thanh sắt nướng đỏ, người thấy không dám đụng vào. Cũng vậy, người ghê-sợ tội-lỗi suy nghĩ rằng: "nếu ta phạm giới sẽ phải sa vào khổ-cảnh, đau-khổ ở cảnh giới địa-ngục hay súc-sanh, quả thật không đáng cho ta". Thế là, vị ấy chấp-hành giới nghiêm chỉnh.

Trong thời hiện-tại, nhiều tín-đồ Phật-giáo xem nhẹ giới. Một số chú trọng đến pháp bố-thí, với sự mong cầu quả vật-chất dồi dào nhưng lại xem nhẹ giới, xem nhẹ tu-tập, chẳng khác nào một người gieo trồng hạt giống tốt, nhưng thiếu chăm-sóc, bón phân nên kết quả chẳng là bao.

Trong Tăng-chi kinh (phẩm tám pháp) Ðức Thế-tôn có dạy (đại ý) như sau:

- "Này chư tỳ-khưu! có tám thọ sanh do bố-thí (dāmīpapaṭṭiyo), thế nào là tám?

Bố-thí đến các sa-môn, Bà-la-môn những vật-dụng, với mong cầu: 'Mong rằng, sau khi mệnh-chung, được sanh vào dòng dõi đại-phú như: vua đại phú, dòng Bà-la-môn đại phú, gia chủ đại phú... để hưỡng năm dục trưởng-dưỡng'.

Này chư tỳ-khưu! Người giữ giới thành-công (ijjhaṭi), vì tâm hướng đến thanh-tịnh.

Bố-thí hướng tâm mong cầu được cộng trú ở cõi Tứ Thiên-vương ... cõi Ðạo-lợi... cõi Dạ-ma... cõi Ðẩu-suất... cõi Hóa-lạc thiên... cõi Tha-hóa-tự-tại.

Này các tỳ-khưu! Người giữ giới thành-công, vì tâm hướng đến thanh-tịnh.

Này các tỳ-khưu! Ở đây, có người bố-thí đến sa-môn, Bà-la-môn những vật-dụng, được tái-sanh về Phạm-chúng thiên. Người giữ giới thành-công vì tâm hướng đến ly-tham.

Này các tỳ-khưu! Ðây là tám thọ sanh do bố-thí".

Ðoạn kinh trên cho chúng ta thấy rằng: Sự bố-thí có kết quả lớn hay nhỏ đều đặt trên nền-tảng giới. Ở đoạn kinh khác, đức Phật có dạy:

"Này chư tỳ-khưu! có ba căn-bản làm phước. Thế nào là ba? Căn-bản làm phước do bố-thí, căn-bản làm phước do giới-đức, căn-bản làm phước do tu-tập". (Tăng chi-kinh)

Tiếp theo đức Phật giảng các căn-bản ấy như là:

- Bố-thí nhỏ, giới yếu kém, tu-tập kém. Có được sanh làm người cũng là người kém may mắn (manussaddobhaggaṃ).

- Bố-thí vừa, giới-đức vừa, không đạt sự tu-tập. Ðược sanh làm người may mắn.

- Bố-thí lớn, giới-đức lớn, không đạt sự tu-tập. Ðược sanh về sáu cảnh trời.

Cũng nên hiểu bố-thí nhỏ ở đây chỉ cho nô-lệ thí (dasadāna) là mình dùng vật-dụng tốt, nhưng bố-thí những vật-dụng hạ liệt, chỉ xứng đáng cho người đày tớ của mình. Bố-thí vừa là bằng hữu thí (sahāyadāna), là mình dùng vật như thế nào, sẽ cho loại vật-dụng như thế. Bố-thí lớn là gia chủ thí (sāmīdāna) là mình dùng vật thô xấu, nhưng cho loại vật-dụng tốt, như lễ vật dâng cho chủ.

Một số bào chữa cho sự uống rượu, "uống rượu mà không say thì không sao", xem như đó là một giới nhỏ. Thật ra, giới ấy lại cực kỳ nguy-hiểm.

Các Ngài chú giải sư có dạy: "Giới uống rượu và các chất say là nguy-hiểm, tai hại nhất, vì nó có tác-dụng hủy hoại trí, người không trí không thể chứng-đắc đạo-quả".

Trong Tăng-chi kinh (phẩm Tám pháp). đức Phật có dạy:

Tám giới là: Sát-sanh, trộm-cắp, tà-hạnh trong dục, nói dối, nói hai lưỡi (đâm-thọc), nói ác, nói phù phiếm và uống rượu.

Tám điều này được thực-hiện thường xuyên, hậu quả là rơi vào ba đọa-xứ (địa-ngục, súc-sanh, ngạ-quỉ). Và quả nhỏ nhất của uống rượu là sanh làm người có tâm điên loạn (ummaṭṭaka).

Một số có khuynh-hướng tu-tập thiền Quán để sưu tầm đạo-quả, nhưng xem nhẹ giới, xem nhẹ thiền Chỉ, vì thế quả siêu-thế khó sanh-khởi. Chẳng khác nào một học sinh mong muốn trở thành bác-sĩ, kỹ-sư, nhưng xem nhẹ giai-đoạn học phổ-thông, không nỗ-lực học-tập, do đó ước vọng kia chỉ là sương khói.

Giới có một vị trí rất quan trọng trong cuộc hành trình vượt thoát luân-hồi, muốn chứng-đắc tầng Thánh đầu tiên là Dự-lưu quả, phải có giới thanh-tịnh, muốn đắc tầng thánh thứ hai là Nhất-lai, phải có giới viên-mãn.

Trong Tương-ưng kinh ghi lại câu chuyện bàn luận giữa hai vị dòng Thích-ca (Sakya) là Godha và Mahānāma. (Theo sớ giải khi ấy Ngài Godha chưa chứng quả Dự-lưu, nhưng vì có niềm tịnh tín nơi Tam-bảo, vị ấy ngỡ mình đã chứng quả Dự-lưu, còn đức Mahānāma là bậc Dự-lưu).

Godha cho rằng thành-tựu ba pháp là: đức-tin đặt nơi Tam-bảo, đó là bậc Dự-lưu, không bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác-ngộ. Còn Ngài Mahānāma cho rằng thành-tựu bốn pháp là: đức-tin nơi Tam-bảo và thành-tựu giới được bậc Thánh ái-kính (giới thanh-tịnh), đó là bậc Dự-lưu.

Câu chuyện được mang đến trình-bày trước Ðức Thế-tôn. Ngài Mahānāma trình-bày niềm tin của mình đặt vào Ðức Thế-tôn vững-chắc với ý rằng: "Ðức Thế-tôn dạy thế nào, Ngài Mahānāma chấp-thuận như thế ấy".

Và Ðức Thế-tôn xác nhận cho Ngài Mahānāma qua câu hỏi trí-tuệ của Ngài là:

- Này Godha! Mahānāma đã nói như vậy, ngươi có nói gì không?.

- Bạch Ðức Thế-tôn! Mahānāma đã nói như vậy, con không có nói gì, trừ lời nói "thiện", trừ lời nói "tốt" (annaṭra kalyānā, annaṭra kusalā).

Sở dĩ giới không được trong sạch, không được gìn-giữ là do vô-minh, nói cách khác là không có chánh-kiến dẫn dắt.

Nghĩa là sao? Nghĩa là người hành-trì giới-hạnh không thấy được cứu cánh, nếu có chăng cũng chỉ thấy lờ-mờ, chỉ có ý-niệm đơn-sơ: "giữ giới để giải-thoát".

Nhưng nếu hỏi tiếp: Lấy gì là điểm tựa để giới này được thanh-tịnh đưa đến giải-thoát? Người ấy sẽ lúng túng, né tránh vấn đề.

Giới được thanh-tịnh dựa vào tuệ phòng-hộ.

Kệ-ngôn:

"Người có trí trú giới
Tu-tập tâm và tuệ
Nhiệt-tâm và thận-trọng
Vị tỷ kheo thoát triền"
.

Ngài Buddhaghosa giải thích chữ "thận-trọng" là tuệ-giác, chỉ cho tuệ phòng-hộ.

Trong kệ-ngôn trên, tuệ được nhắc đến ba lần: lần đầu (có trí) là nói tuệ bẩm-sinh có trong cơ-tánh người ấy, ám chỉ người tục-sinh với ba nhân: vô-tham, vô-sân và trí.

"Tu-tập tâm và tuệ". Tuệ ở đây là tuệ-quán. "Nhiệt-tâm và thận-trọng". Tuệ ở đây chỉ cho trí phòng-hộ. Nhiệt-tâm và thận-trọng, có nghĩa là nghị-lực kiên-trì, bằng sự giác-tỉnh của hành-giả khi an-trú vào giới tu-tập, phát-triển Chỉ và Quán.

Giới thanh-tịnh là khởi đầu cho bảy thanh-tịnh, nhưng làm thế nào để xác định là giới được thanh-tịnh? Ðức Phật có dạy bà Visākhā rằng:

"Ở đây, này Visākhā! vị Thánh đệ tử "niệm giới" không bị hư hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô...". (Tăng-chi kinh)

Hay:

-"Này Cundī! giới được bậc Thánh ái kính là tối thượng trong các giới. tức là giới không bị bể vụn, không bị sứt mẻ, không bị vết chấm, không bị uế nhiễm, đưa đến giải-thoát". (Tăng-chi kinh)

(Cundī là công chúa con vua Bình-sa Vương)

Ở đây, giới thanh-tịnh bao gồm thân-ngữ-ý thanh-tịnh, là: thân xa lìa ba ác-hạnh của thân, ngữ xa lìa bốn ác-hạnh của lời nói và ý xa lìa tham, sân, si.

Giới này dẫn đến giải-thoát: giải-thoát năm pháp chướng-ngại dựa vào ly-dục (vivekanissaṭa): giải-thoát khổ luân-hồi dựa vào sự vô-nhiễm (virāga).

Như bài kinh Maggaṅga vibhaṅga như sau:

"Vị ấy tu-tập chánh-ngữ, dựa vào pháp ly-dục, dựa vào pháp vô-nhiễm đưa đến giải-thoát trọn vẹn.
Vị ấy tu-tập chánh-nghiệp... chánh-mạng dựa vào pháp ly-dục, dựa vào pháp vô-nhiễm đưa đến giải-thoát trọn vẹn...".

Chữ vô-nhiễm (virāga), trong bộ Paṭisambhidā magga có giải thích vô-nhiễm có hai là:

- Níp-bàn là vô-nhiễm.
- Tất cả pháp sanh-khởi do chánh-kiến, có Níp-bàn là cảnh, gọi là vô-nhiễm.

Như vậy, "vô-nhiễm" ở đây được xem như đạo siên thế. Pháp có hai loại: pháp hữu-vi (saṅkhāradhamma) và pháp vô-vi (asaṅkhāradhamma), pháp vô-vi là Níp-bàn, trong hai loại ấy pháp vô-vi là tối thắng hơn cả.

Ðức Thế-tôn có dạy rằng: "Này Cundī! Vô-nhiễm (virāga) là pháp được xem là tối thượng trong các pháp". (Tăng-chi kinh)

Paṭisambhidā magga cũng giải thích vô nhiểm chính là tâm đạo siêu-thế, còn giải-thoát chính là tâm quả siêu-thế. Nói gọn hơn, giới đưa đến giải-thoát là giới có chánh-kiến dẫn dắt.

"Vì mục-đích chứng ngộ quả giải-thoát là nhờ Minh, này chư hiền, phạm-hạnh được sống dưới Ðức Thế-tôn". (Tưng-ưng kinh)

Giới đưa đến giải-thoát, là những giới không có khuynh-hướng thành-tựu trong hữu (bhava sampaṭṭi), tức là không có mục-đích có được những kiếp sống hạnh-phúc dựa vào luân-hồi.

Ðó chính là giới thanh-tịnh, người có sự phòng-hộ của tuệ đối với giới, giới ấy trở nên thanh-tịnh, nhưng nếu không có tác ý hướng đến giải-thoát, từ bỏ những nỗ-lực để thành-đạt đạo-quả siêu-thế, thì giới thanh-tịnh ấy không thuộc về chi đạo, không thuộc về pháp trợ giúp giác-ngộ. Nó chỉ có thể là giới ba-la-mật, là có một phần nghiêng về sự chấm dứt luân-hồi (vivaṭṭa nissiṭa) phần còn lại nghiêng về thành-đạt an lạc trong hữu.

Chỉ khác nhau về tác ý, cuộc diện đã thay đổi. Tác ý hướng về giải-thoát có được là do tri-kiến nhận thấy được sự khổ trong dục là do tham-ái, nên có tác-ý thoát ra cõi dục, trước tiên là bốn khổ-cảnh. Vì thế, thành-tựu Dự-lưu đạo, Nhất-lai đạo do nương vào giới.

Giới thanh-tịnh chỉ hiện-hữu đầy đủ cả ba chi: chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng một lần trong tâm đạo siêu-thế. Nói chính xác chỉ có bốn lần trong bốn tâm đạo siêu-thế và lưu lại kết quả trong tâm quả siêu-thế. Do đó nói rằng: giới thanh-tịnh đưa đến giới giải-thoát, hay giới thanh-tịnh là nhân, giới giải-thoát là quả.

Nếu mở rộng vấn đề trên lãnh-vực trợ sinh, thì giới thanh-tịnh là điềm báo hiện cho Bát Thánh đạo xuất hiện.

"Này chư tỳ-khưu! điềm báo trước mặt trời mọc là rạng đông. Cũng vậy, này chư tỳ-khưu! điềm báo trước Thánh-đạo tám ngành sanh-khởi là thành-tựu giới-hạnh". (Tương-ưng kinh)

Giới thanh-tịnh là giới tiên khởi của phạm-hạnh (ādibrahmacariya sīla), của sa-môn hạnh (sāmanaṭṭo), giải-thoát là mục-đích của phạm-hạnh, của sa-môn hạnh.

"Này chư tỳ-khưu! thế nào là sa-môn hạnh?
Là Thánh-đạo tám ngành. Tức là chánh-kiến...

Này chư tỳ-khưu! thế nào là mục-đích của sa-môn hạnh?
Này các tỳ-khưu! đoạn tận tham, sân, si là mục-đích của sa-môn hạnh". (Tăng-chi kinh)

Ba chi đạo chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng thuần túy thuộc về giới uẩn, được gọi là ba sở-hữu ngăn trừ (viraṭṭi ceṭasika).

Tương-quan giữa học-giới và ba sở-hữu ngăn trừ

Học-giới là những điều-học được Ðức Thế-tôn chế-định, nhằm mục-đích làm sanh-khởi, tăng-trưởng, sung-mãn chi phần của giới-uẩn.

Sự chế-định học-giới của Ðức Thế-tôn cho chư đệ tử, xoay quanh thân -ngữ -ý thanh-tịnh.

Nghĩa là: thân xa lìa ba ác-hạnh, ngữ xa lìa bốn ác-hạnh và ý lìa xa ba ác bất-thiện pháp tham, sân và tà-kiến.

Nhưng tùy theo đối-tượng, sự chế-định học-giới có khác nhau về số lượng cũng như tính-chất.

Như hàng cận-sự có năm giới, tám giới, sa-di có mười giới, tỳ-khưu có bốn Thanh-tịnh giới, đó là về số lượng.

Còn về tính-chất:

Lấy một giới sát-sanh ra điển-hình: Sa-di sát-sanh phạm vào tội phải bị tẩn xuất ra khỏi phẩm mạo sa-môn, nhưng được xuất-gia trở lại.

Còn tỳ-khưu sát-sanh chỉ phạm Ưng-đối trị (nissaggiya: làm hư hoại thiện-pháp).

Tỳ-khưu hành dâm (abrahmacariya: phi phạm-hạnh), bị tẩn xuất ra khỏi tăng-đoàn, suốt đời không còn thành-tựu tỳ-khưu giới.

Còn Sa-di hành dâm cũng bị trục xuất khỏi hạnh sa-môn, nhưng vẫn được xuất-gia trở lại, thọ giới tỳ-khưu. Chỉ khi nào hành dâm với tỳ-khưu ni, xem như không thể thành-tựu tỳ-khưu giới.

Hàng cư-sĩ không có giới mắng nhiếc người khác, trái lại vị tỳ-khưu khi mắng chữi bằng lời lẽ thô xấu, phạm Ưng-đối trị...

Học-giới hàng cư-sĩ có số lượng ít, vì người cư-sĩ còn bị ràng buộc nhiều trong đời sống thế tục.

Lại nữa, tâm lý chúng-sanh thường "ưa dễ ngại khó", nên Ðức Thế-tôn chế-định học-giới cho hàng cư-sĩ như sa-di hoặc tỳ-khưu, sẽ phát-sanh chướng-ngại đối với hàng cư-sĩ, khiến họ không dám thân-cận với giáo-pháp này làm mất đi lợi-ích tốt đẹp mà họ có thể có được.

Và lợi-ích phát-sanh ra sao? Hàng tại gia cư-sĩ không thể chứng-đắc Thánh quả A-la-hán, chỉ đến bậc A-na-hàm mà thôi. Trường-hợp bà Khemā, đại thần Sanṭaṭi, vua Suddhodana (Tịnh-phạn) ... chứng-đắc A-la-hán, là trường-hợp đặc biệt, nhưng bà Khemā cũng phải xuất-gia, đại thần Sanṭaṭi thì tịch diệt ngay sau đó, vua Suddhodana cũng vô-dư Níp-bàn trong vòng bảy ngày.

Nhưng tầng Thánh đầu tiên là Dự-lưu, người cư-sĩ đạt được rất nhiều, cũng là mục tiêu yêu cầu của Ðức Thế-tôn đối với hàng tại gia, còn mục tiêu yêu cầu Thánh quả Bất-lai là dành cho bậc xuất-gia.

Nói rằng: "người cư-sĩ thành-đạt Dự-lưu rất nhiều", là bao gồm cả chư-thiên, phạm-thiên. Tiếng nói " nhiều " là so với các tầng Thánh cao hơn, còn so với số lượng nhân-loại thì chẳng là bao.

Chỉ có năm giới mà người cư-sĩ còn than phiền là giữ không nỗi, nói gì nhiều hơn năm giới! Trong thời đức Phật cũng có nhiều cư-sĩ than phiền như thế, có người chỉ giữ được một hay hai giới. đức Phật giải-thích về tính cách khó giữ tròn năm giới, đồng thời Ngài cũng không dạy giới nào quan trọng hơn giới nào.

Yo pāṇaṃ aṭipāṭeṭi
Musāvādañ ca bhāsaṭi
Loke adinnaṃ ādiyaṭi
Paradārañ ca gacchaṭi
Surāmerayapānañ ca
Yo naro anuyuñjaṭi
Idh’ evaṃ eso lokasmiṃ
Mūlaṃ khaṇaṭi aṭṭano

"Người sát-sanh, vọng ngữ, lấy của không cho, lân la vợ người và dể-duôi dùng chất say, người ấy tự đào lỗ, tự chôn gốc rễ trên thế-gian này". (Pháp Cú : 246 -247)

Evaṃ bho purisa jānāhi
Pāpadhammā asaññaṭā
Mā ṭaṃ lobho adhammo ca
Ciraṃ dukkhāya randhayuṃ.

"Này hỡi con người tốt, nên biết như vầy: Tự chế phục để tránh làm điều ác không phải dễ. Không nên để tham-ái và tội lỗi, lôi cuốn vào cảnh khổ triền miên". (Pháp Cú 248)

Chữ adhammo (phi pháp) đối nghịch với dhammo (pháp). Dhammo đôi khi được dùng theo nghĩa chánh-hạnh và adhammo được dùng theo nghĩa tà-hạnh.

"Này chư tỳ-khưu! phi pháp và pháp cần phải biết, phi mục-đích và mục-đích cần phải biết.
Sau khi hiểu biết pháp và mục-đích cần phải hành...". (Tăng-chi kinh)

Chính vì mang không nỗi năm giới theo mình, nên học-giới của người cư-sĩ thật ít, nhưng không có nghĩa là không tác-dụng, năm giới giữ được thanh-tịnh vẫn có thể đưa đến giải-thoát.

Trong Tăng-chi kinh có ghi câu chuyện của nữ cư-sĩ Migasālā: Nữ cư-sĩ Migasālā thắc mắc về đạo-quả và sanh thú của cha là Purāṇa, và cậu là Isidaṭṭa. Cha của bà sống phạm-hạnh (là giữ giới không dâm dục (abrahmacariya). Trái lại, người cậu bằng lòng với vợ mình (tức là chỉ giữ giới không tà dâm: kāmesu-micchācārā). Cả hai điều được Ðức Thế-tôn xác nhận là bậc Dự-lưu, đều được sanh về cõi Tusiṭa (Ðẩu-suất). Bà thắc mắc: một người sống phạm-hạnh, một người chỉ giữ năm giới, vì sao đều đắc Dự-lưu, đều được sanh về cõi Tusiṭa. Bà trình-bày thắc mắc của mình đến Ðại-đức Ānanda. Ðại-đức Ānanda trình-bày đến Ðức Thế-tôn. Nhân đó Ðức Thế-tôn dạy về sáu hạng người và dạy rằng:

"Giới nào của Purāṇa, giới ấy Isidaṭṭa chưa thành-tựu. Tuệ nào của Isidaṭṭa, tuệ ấy Purāṇa chưa thành-tựu.

Như vậy, này Ānanda! Cả hai người đều thiếu sót một chi phần". (Tăng-chi kinh)

Ðoạn kinh trên cho thấy rằng: người cư-sĩ gìn-giữ trong sạch năm giới như Isidaṭṭa, bà Visākhā, ông Anāṭhapiṇḍika, tu-tập tuệ-quán, vẫn có thể chứng đạo-quả Dự-lưu.

Ở đoạn khác, Ðức Thế-tôn dạy rằng:

-" Này gia chủ! (chỉ cho Anāṭhapiṇḍika), ai không đoạn tận năm sợ-hãi hận-thù, được gọi là ác-giới và sanh vào địa-ngục. Thế nào là năm? sát-sanh, lấy của không cho, tà-hạnh trong dục, nói láo, đắm say rượu men, rượu nấu.

Này gia chủ! ai đoạn tận năm sợ-hãi hận-thù được gọi là người có giới và sanh lên cõi trời. Thế nào là năm? Ðoạn tận sát-sanh... Ðoạn tận đắm say rượu men, rượu nấu". (Tăng-chi kinh)

Ngay cả điều nói lời phù phiếm, đa số đều xem thường, (vì có hại gì ai đâu? có tạo nghiệp gì ác đâu?) ấy thế mà!

- Này các tỳ-khưu! nói lời phù phiếm, được thực-hiện, được hành-trì (bhāveṭi), được làm cho sung-mãn, đưa đến địa-ngục, đưa đến loài bàng-sanh, đưa đến ngạ-quỉ. Quả dị-thục hết sức nhẹ, là được làm người và được nghe những lời khó chấp-nhận (nādeyyavācā). (Tăng-chi kinh)

Những lời phù phiếm sao mà ghê gớm thế? Nếu suy-nghiệm kỹ sẽ thấy rằng: Những lời phù phiếm khiến sanh tâm náo-động, nó trợ duyên cho phóng-dật (uddhacca) sanh-khởi. Tâm thường tán-loạn, khi sắp mệnh-chung khó an-trụ vào thiện-pháp, do đó nó sẽ dẫn đến khổ-cảnh sau khi mệnh-chung.

Lại nữa, có lần Ngài Mahā koṭṭhiṭa (là vị đại đệ tử đệ nhất về Vô-ngại-giải) hỏi Ngài Sārīpuṭṭa như sau:

- Thưa hiền-giả! Sau khi đoạn-diệt, ly-tham sáu xúc xứ (channaṃ phassāyaṭana) không có dư tàn, còn có một cái gì khác nữa?

- Thưa hiền-giả! Chớ có nói như vậy. Nói như thế là khiến trở thành hý-luận một vấn đề không phải hý-luận (iṭi vadaṃ appapañca paṅceṭi).

- Thưa hiền-giả! Sau khi đoạn-diệt, ly-tham sáu xúc xứ không có dư tàn, không còn một cái gì nữa.

- Thưa hiền-giả! Chớ có nói như vậy...

- Thưa hiền-giả! Sau khi đoạn-diệt... còn có và không còn có một cái gì nữa.

- Thưa hiền-giả! Chớ có nói như vậy! ...

Ðoạn kinh trên rất thâm sâu. Trước tiên, chúng ta nên quay lại vấn đề nói dối và nói phù phiếm hay hý-luận. Nói dối là sự-kiện có thật, nhưng cố tình chối bỏ với mục-đích đánh lạc hướng nhận-thức người đối diện. Nói dối có bốn chi phần:

Lời không thật.
Biết là lời không thật.
Cố ý nói.
Và người nghe đã tin.

Còn nói phù phiếm là bàn luận về một sự-kiện không có thật, một vấn đề chưa diễn ra, chẳng khác nào tạo ra một hình tượng bằng gỗ, bằng đất hay bằng rơm, rồi gán ép cho hình tượng ấy có sự sống, có cảm nghĩ, có thọ nhận... và bàn luận xoay quanh những vấn đề sự sống của hình tượng, suy nghĩ của hình tượng, cảm thọ của hình tượng.

Nói cách khác, hý-luận là một hình-thức của ảo tưởng, không tưởng. Ðiển hình như sự thờ thần lửa của Bà-la-môn cổ xưa. Chữ papañca có nghĩa là ảo tưởng, sự lầm-lạc, là một trở ngại (của sự-thật) -appapañca là không hý-luận.

Xúc do duyên Xứ mà có, Xứ khởi sanh do duyên danh-sắc. Xúc-xứ-danh-sắc là quả luân-hồi, do nghiệp luân-hồi tạo thành. Vị A-la-hán diệt mọi nghiệp luân-hồi cho quả trong vị-lai, nhưng nghiệp luân-hồi đã cho quả Ngài không diệt, vì Ngài còn mang danh-sắc là còn quả luân-hồi của nghiệp luân hồi trong kiếp hiện tại.

Thế là, sự-kiện diệt sáu xúc -xứ không hề có cho dù ở ngay trong tâm đạo siêu-thế, cho nên Ngài Sārīpuṭṭa nói rằng: - Thưa hiền-giả! Chớ có nói như thế.

Nghĩa là ý Ngài nói rằng: "Sự-kiện diệt sáu xúc -xứ ở đây không hề có", đã không có sự-kiện này thì không thể nói còn hay không còn, cho dù là còn hay không còn đều rơi vào ảo tưởng, rơi vào hý-luận.

Ảo tưởng ấy sanh lên do nhân nào? Do ái, tà-kiến và ngã-mạn. Ái ở đây là: yêu thích cái không có (vibhava ṭaṅhā), tà-kiến là sự nhận-thức sai, thấy không đúng sự-thật. Còn ngã-mạn là yêu thích cái của tôi, vì yêu thích cái của ta nên có sự so sánh: Hơn so với hơn, hơn so với bằng... "Còn và không còn" cũng là sự so sánh.

"Cái của tôi’ là bóng của "cái tôi", khi hình không có thì bóng không có, xét về mặt thực-tính (sabhāva), cái tôi (aṭṭa) không có, nó chỉ là diễn tiến của danh-sắc xuyên qua nhân-duyên. Cái ta không có thật, yêu thích cái ta (ái ngã - aṭṭaṭaṅhā) là một hình-thức yêu thích cái không có (vibhavaṭaṅhā), ở khía cạnh khác, nó lại là hình-thức của tà-kiến. Do đó, nói ảo tưởng có nhân là: ái, tà-kiến, ngã-mạn.

Ðức Phật có dạy rằng:

"Puṭṭā m’aṭṭhi dhanaṃ m’aṭṭhi
Iṭi bālo vihaññaṭi
Aṭṭā hi aṭṭano naṭṭhi
Kuṭo puṭṭā kuṭo dhanaṃ.

Con ta tài-sản ta
Người ngu nghĩ quấy khổ
Thân ta còn không có
Con đâu tài-sản đâu". (Pháp Cú 62)

Ái, tà-kiến, ngã-mạng được thực-hiện, hành-trì làm cho sung-mãn thì vấn đề rơi vào khổ-cảnh, không có gì đáng bàn cải nữa.

Do đó đức Phật có dạy rằng:

"Vị Thánh đệ tử khi ngồi lại với nhau, có hai tư cách: Im lặng bậc Thánh hay biện-luận về pháp". (Tăng-chi kinh)

"Im lặng bậc Thánh" là an-trú tâm vào đề mục thiền-định.

Tóm lại, các điều-học là biểu hiện của giới trong tám chi đạo.

Ví như người có trí biết được voi chúa Chaddanṭa, có sức mạnh, người nào làm chủ được voi chúa Chaddanṭa, sẽ an-toàn, không hề có hiểm-họa ở chốn rừng sâu. Người ấy muốn tìm bắt voi chúa Chaddanṭa. Lẽ thường, voi chúa ẩn trú nơi thâm sâu, khó tìm kiếm, người muốn bắt voi chúa, phải biết chỗ ẩn trú của voi chúa, hay lộ-trình voi chúa thường đi qua. Y lên đường đi đến đó, nhìn thấy những dấu chân voi, y biết voi chúa thường xuyên du hành ở nơi đây và y kiên nhẫn chờ đàn voi xuất hiện. Khi đàn voi xuất hiện tùy theo tài trí của y, y có thể bắt được voi con thuần chủng Chaddanṭa, hoặc voi đang độ trưởng thành hoặc chính voi chúa Chaddanṭa.

Như thế nào, cũng vậy, voi chúa Chaddanṭa ví như quả vị Vô-lậu, ẩn nơi chốn thâm sâu ví như dựa vào ly-dục, vô-nhiễm (virāga). Những dấu chân voi ví như học-giới. tài trí ví như sự tu-tập thiền Chỉ hay thiền Quán, voi con ví như quả Dự-lưu, voi đang trưởng thành ví như quả A-na-hàm.

ÐỊNH-UẨN

Ba chi chánh tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định gọi chung là Ðịnh-uẩn (sammādhikkhandha). Ba chi này được trình-bày tương đối đầy đủ ở những phần trên. Về mặt cơ-bản thực-tính thì giống nhau, chỉ khác mục-đích là: ba chi phần trong tám chi đạo này có mục-đích là đoạn-diệt các lậu-hoặc trong vùng triền.

"Này các tỳ-khưu có bốn định tu-tập:

Ðịnh tu-tập sung-mãn đưa đến hiện-tại lạc-trú.
Ðịnh tu-tập sung-mãn đưa đến chứng đạt tri-kiến.
Ðịnh tu-tập sung-mãn đưa đến chánh-niệm tỉnh-giác.
Ðịnh tu-tập sung-mãn đưa đến đoạn tận các lậu-hoặc
. (Tăng-chi kinh)

Ðịnh đưa đến hiện-tại lạc-truù (sukhavihāra) là định thành-tựu trong tám tầng thiền.

Ðịnh đưa đến chứng đạt tri-kiến là loại định giúp cho trí thấy được ba tướng vô-thường, khổ, vô-ngã. Thấy được nhân sanh-khởi, nhân đoạn-diệt của pháp hữu-vi, là định tác ý đến ánh sáng, khiến tâm rộng mở, không bị bao phủ, tâm đi đến chỗ sáng chói.

Ðịnh đưa đến chánh-niệm tỉnh-giác, là định an-trú trong pháp quán, là vô-nguyện định, là không-định, là vô-tướng định.

Ðịnh đưa đến đoạn tận các lậu-hoặc là Định trong Tám chi đạo, là loại định khi quán-xét năm thủ uẩn: đây là sắc, đây là nhân sanh sắc, đây là sắc diệt. Ðây là thọ, đây là nhân sanh thọ, đây là thọ diệt... Ðây là thức, đây là nhân sanh thức, đây là thức diệt.

Nói cách dễ hiểu hơn, định đưa đến hiện-tại lạc-trú là định của thiền Chỉ. Ðịnh đưa đến chứng đạt tri-kiến là định của thiền Quán. Ðịnh đưa đến Chánh-niệm tỉnh-giác là định an-trú trong ba tướng, bao gồm định quyền, định-lực, định giác-chi. Ðịnh đưa đến đoạn trừ lậu-hoặc là định trong tám chi đạo.

Ba loại định đưa đến tri-kiến, đưa đến Chánh-niệm tỉnh-giác, đưa đến đoạn trừ lậu-hoặc, đều được thiết lập trên nền-tảng định lạc-trú (là định của thiền Chỉ-tịnh).

Một số hành-giả tu-tập thiền Quán, có quan niệm rằng: "Tu-tập quán bốn niệm-xứ không cần đến định". Ðây là một sai lầm tai hại, một sai lầm lớn, là một trở ngại nghiêm trọng. Do có quan niệm "không cần đến định", nên không tác-ý đến định, vì tác-ý đến định nên định không sanh-khởi, dẫn đến kết quả: Sự tu-tập không đưa đến lợi-ích như mong muốn.

Ðức Phật có dạy: "Này các tỳ-khưu! có bốn đạo-hành (paṭipāda). Thế nào là bốn?Ðạo-hành khổ, thắng-trí chậm, đạo-hành khổ thắng-trí nhanh. Ðạo-hành lạc, thắng-trí chậm, đạo-hành lạc thắng-trí nhanh.". (Tăng-chi kinh)

Với người có tham-dục nặng (ṭibbarāgajāṭiko), sân nặng, si nặng, luôn bị cảm thọ khổ do tham, sân, si gây ra. Lại nữa, có năm Quyền là: tín, tấn, niệm, định, tuệ yếu ớt, nên sự đoạn-diệt các lậu-hoặc chậm chạp, gọi là đạo-hành khổ thắng-trí chậm.

Với người có tham, sân, si nặng, luôn bị cảm thọ-khổ ưu do tham, sân, si gây ra, nhưng người này có năm Quyền cường-mạnh, nên mau chóng đoạn-diệt các lậu-hoặc. Gọi là đạo-hành khổ thắng-trí nhanh.

Với người có tham-dục nhẹ, sân nhẹ, si nhẹ, người này không bị cảm thọ-khổ ưu do tham, sân, si gây ra, nhưng năm Quyền lại yếu-đuối, muội-lược, nên đoạn-diệt các lậu-hoặc một cách chậm chạp. Gọi là đạo-hành lạc thắng-trí chậm.

Với người có tham-dục nhẹ, sân nhẹ, si nhẹ, người này không bị cảm thọ-khổ ưu do tham, sân, si gây ra, năm Quyền lại cường-mạnh, người này đoạn trừ các lậu-hoặc nhanh chóng. Gọi là đạo-hành lạc thắng-trí nhanh.

Như thế, với phương thức đoạn trừ lậu-hoặc phải có năm Quyền sung-mãn. Nhưng hành-giả lại không tác-ý đến định, không làm sanh-khởi định, dẫn đến năm Quyền yếu ớt, mà tuệ do định hổ-trợ là chủ yếu. Do đó, hành-giả này chứng-đắc đạo-quả thật khó khăn, cho dù bẩm sinh có tham, sân, si nhẹ.

Vì sao ba chi: chánh tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định gom vào định-uẩn? Ðịnh không thể tự mình an-trú vững vào cảnh để thành-tựu định kiên-cố, nó chỉ có thể thành-tựu nhờ sự trợ lực của chánh tinh-tấn và chánh-niệm.

Chánh tinh-tấn hoàn tất nhiệm-vụ nỗ-lực quét sạch những ác bất-thiện pháp, niệm có nhiệm-vụ ngăn ngừa sự giao động, bấy giờ định hoàn thành nhiệm-vụ của mình là trú-vững trong cảnh.

Có ví dụ như sau: có ba người bạn đi dự lễ trong khu vườn. Một người trông thấy cánh hoa đẹp, với tay hái nhưng không tới, người thứ hai cong lưng cho y đứng lên vai, nhưng y đứng không vững vàng, người thứ ba kề vai cho y làm điểm tựa. Bấy giờ y đứng vững trên hai vai cũa hai người bạn và hái được cánh hoa đẹp. Người muốn hái cánh hoa đẹp ví như định, người thứ hai ví như tinh-tấn, người thứ ba ví như niệm.

Vậy định là gì? Chánh-định là sự tập trung (samādhāna) các pháp đồng sanh với nó (là tâm và sở-hữu), xoay quanh (ādhāna) đúng đắn vào một đối-tượng duy nhất.

Ðịnh sanh ra từ đâu? Nhân sanh gần nhất (padaṭṭhāna) của định là lạc.

"Sukhino ciṭṭaṃ samādhiyaṭi - Do lạc, tâm được định tĩnh" (kinh Sa-môn-quả, Trường-bộ).

Nhưng sự chứng đạt, an-trú trong sơ-thiền phải có trí, nhận thấy nguy-hiểm của dục-lạc. Hành-giả phải có tác-ý lánh xa, từ bỏ những dục-lạc, khi ấy mới chứng và trú trong sơ-thiền được.

Nói cách khác, nhân gần sanh-khởi cho định là lạc, duyên hỗ-trợ cho chứng trú định là trí thấy được nguy-hiểm của dục-lạc.

"Này các tỳ-khưu! do đoạn tận năm pháp, có thể đạt được và an-trú Sơ-thiền". Thế nào là năm?
Tham-dục, sân ác, hôn-trầm, trạo-hối, nghi và không như thật khéo thấy với trí-tuệ các nguy hại trong các dục. (Tăng-chi kinh)

Kinh văn có ghi rằng: "Vị tỳ-khưu, ly ác bất-thiện pháp, chứng và trú Sơ-thiền một trạng-thái hỷ-lạc do ly-dục sanh". Ly ác bất-thiện pháp là lìa bỏ, áp chế được năm pháp chướng-ngại, do ly-dục sanh là do có chánh-kiến.

Nền-tảng của định Chỉ-tịnh ở đâu? Ở Giới thanh-tịnh. "Này các tỳ-khưu! với người phá giới (sīlavipannassa), chi định bị phá hoại (heṭu paniso). Khi chi định không có mặt, như thật tri-kiến bị phá hoại..." (Tăng-chi kinh)

Tầm quan trọng của định là như thế.

Có hai loại hành-giả: hạng hành-giả chỉ thực-hành thuần túy pháp Minh-sát và hạng hành-giả thực-hành cả Chỉ lẫn Quán (dĩ nhiên không đề cập đến hạng hành giả chuyên chú tu-tập thiền Chỉ, không có ước vọng tầm đạo giải-thoát).

Hành-giả thực-hành cả Chỉ lẫn Quán, sau khi chứng đạt các tầng-thiền như sơ-thiền, nhị-thiền ... bắt đầu thực-hành thiền Quán bằng kiến thanh-tịnh. Hành-giả thuần-túy Minh-sát cũng phải dựa vào cận-định. Như vậy, cả hai hạng hành-giả đều phải dựa vào định, tối thiểu cũng phải là cận-địnhø.

Trong hai phương-pháp, phương-pháp thuần túy thiền Quán, ba chi đạo của định-uẩn hoàn thành các phận-sự của tâm-tịnh, là định ở trong Không-tướng gọi là Không-định, định ở trong Vô-tướng gọi là Vô-tướng định, định ở trong Vô-nguyện tướng gọi là Vô-nguyện định.

Phương-pháp Chỉ trước Quán sau, ba chi đạo của định-uẩn, hoàn thành phận-sự tâm-tịnh: bằng ba giai-đoạn: Tiên-khởi định, Cận-định và An-chỉ định. Và ở giai-đoạn Quán, cận-định hay an-chỉ định được trở thành Không-định, Vô-tướng định hoặc Vô-nguyện định.

TUỆ-UẨN

Hai chi chánh-kiến, chánh tư-duy được gom vào Tuệ-uẩn (paññākkhandha) của tám chi đạo.

Vì sao chánh-kiến và chánh tư-duy được liệt kê vào phần Tuệ? Chánh-kiến, tự nó không thể nhận-định rõ ba tướng của pháp hữu-vi là vô-thường, khổ, vô-ngã. Nhưng nếu có chi tầm hay chánh tư-duy trợ lực, bằng cách liên tục cọ xát vào đối-tượng bằng nhiều khía cạnh, thì tuệ có thể nhận-định được.

Ví như người muốn nhận xét đồng tiền này là thật hay giả, y không thể chỉ nhờ vào con mắt, còn phải nhờ vào ngón tay, dùng ngón tay lật qua lật lại đồng tiền để con mắt xem xét.

Cũng vậy, tuệ không thể tự mình phân biệt một vật là vô-thường, khổ, vô-ngã, nhưng có chi tầm trợ lực hướng tâm đến đối-tượng, trí có thể biết được ba tướng.

Người có trí thấy được những hiểm-họa trong luân-hồi, có ý muốn thoát ra khỏi những hiểm-họa ấy, nên suy nghĩ tìm cách vượt ra, "sự suy nghĩ tìm cách vượt ra" là chánh tư-duy, là sở-hữu tầm. Vì thế, chánh-tư-duy được gom vào phần tuệ.

Cũng như, một người bị tống giam vào trong ngục, hay một chiến sĩ đang bị bao vây, người này tìm phương cách thoát khỏi ngục tù hay thoát ra khỏi vòng vây của quân nghịch. Hoặc như con cá đang mắc lưới, nó vùng vẫy mong vượt ra khỏi lưới, con chim bị giam trong lồng, nó nhảy nhót tìm kẻ hở để thoát ra.

Cũng vậy, hành-giả mhận thức được cái khổ trong bốn khổ-cảnh, trầm ngâm suy nghĩ quên cả ăn ngủ, tìm trăm phương ngàn kế để thoát ra tình cảnh nguy ngập trong hiện-tại lẫn vị-lai.

Người đang tu-tập bốn Niệm-xứ, suy-tư tìm cách đặt niệm cho đúng vị trí, ví như người muốn bắn mũi tên vào một điểm trên tấm bia đang di động qua lại, đang quay tròn hay đang giao động, y phải tìm cách nhận-định rõ vị trí mục tiêu, suy nghĩ tìm ra kỹ thuật bắn được mũi tên trúng ngay vào mục tiêu trên bia.

"Nhận-định rõ mục tiêu" là trí, "Suy nghĩ tìm cách bắn trúng mục tiêu" là chánh tư-duy. Ðây gọi là nhóm tuệ trong Niệm-xứ.

Người đang tu-tập bốn chánh-cần, thấy được hiểm hoạ lớn của ác bất-thiện pháp qua những ác-quả đã sanh. Thấy được ác bất-thiện pháp và ác quả là có chánh-kiến, người ấy tìm cách ngăn chặn những ác bất-thiện trong tương-lai, tìm cách tiêu trừ những ác bất-thiện pháp chưa có, làm sung-mãn những thiện-pháp đang có. Ðó là chánh tư-duy.

Ví như người có một chuồng bò, nhốt những con bò hung dữ, người này thấy những con bò này khi thoát ra khỏi chuồng sẽ gây tai-họa đến y. Y tìm cách ngăn chặn chúng thoát ra khỏi chuồng, bằng cách cho vào trong chuồng những con bò tốt có nhiều sức mạnh với mục-đích ngăn chặn những con bò hung dữ. Những con bò tốt càng có nhiều sức mạnh, sự áp chế bò hung dữ càng có hiệu quả.

Người đang tu-tập bốn như-ý túc, thấy được sự ràng buộc của các pháp trói-buộc khiến tâm bị tù túng. Ðó là trí, tìm cách cắt đứt trói-buộc để có sự thành-tựu như-ý là chánh tư-duy. Ví như người có con quạ, y buộc vào chân con quạ sợi dây, nắm lấy một đầu dây, buông thả con quạ ra, con quạ bay lên nhưng không thể thoát ra sợi dây ấy.

Tương-tự như thế với năm Quyền, năm Lực, bảy Giác-chi đều có sự hỗ-trợ của chánh-kiến và chánh tư-duy. Do đó, Tuệ-uẩn là thành-phần rất quan trọng trong những pháp đưa đến quả giải-thoát. Chánh-kiến giống như kim chỉ nam cho mọi pháp trợ-đạo, nó định hướng cho các pháp nghiêng về giải-thoát.

"Này chư tỳ-khưu! tri kiến được đặt đúng hướng, con đường tu-tập đặt đúng hướng, đâm thủng vô-minh, làm sanh-khởi chứng-đạt Níp-bàn". (Tưng-ưng kinh)

Trong Tương-ưng kinh, phẩm Magga saṃyuṭṭa, tám chi đạo được Ðức Thế-tôn thuyết-giảng nhiều khía cạnh, nhiều lãnh-vực như:

- "Bạch đức Thế-tôn! nhiếp phục tham, nhiếp phục sân, nhiếp phục si, đồng nghĩa với gì?

- Này chư tỳ-khưu! đồng nghĩa với Níp-bàn. Cũng được gọi là đoạn tận các lậu-hoặc...

- Bạch Thế-tôn! Bất tử -Bất tử, được gọi như thế. Bạch Thế-tôn! Thế nào là Bất tử? Con đường nào đưa đến Bất tử?.

- Này tỳ-khưu! đoạn tận tham, sân, si được gọi là Bất tử. Thánh đạo tám ngành là con đường đưa đến Bất tử. Thế nào là Chánh-tánh? Là chánh-kiến... chánh-định. Thế nào là bậc chân nhân? Là người theo chánh-kiến ... chánh-định. Thế nào là Chánh-hạnh? Là chánh-kiến... chánh-định...Thế nào là Sa-môn hạnh? Là chánh-kiến... chánh-định...

Nhưng tu-tập chánh-kiến ra sao?

Chánh-kiến là sự thấy đúng, biết đúng. Hành-giả muốn tu-tập chánh-kiến, trước hết phải xác định được pháp đang thấy, đang biết là sắc hay danh. Tức là,ø nền tảng của chánh-kiến phải có là tuệ Phân-biệt danh-sắc. Hành-giả cần xác định: đây là thiện-pháp hay bất-thiện pháp.

Nếu là sắc-pháp, cần xác định đó là loại sắc gì: sắc, thinh, vị... hay sắc vật-thực (āhāra), sắc mạng-quyền (jīviṭarūpa) hay sắc nghiệp ...

Khi đã thấy, biết rõ (là xác định được bản chất cùng tính-chất) của sắc, hành-giả quán-xét đến nhân-duyên sanh-khởi, sự đoạn-diệt và pháp đưa đến sự đoạn-diệt của sắc ấy.

"Này chư hiền! khi vị Thánh đệ tử biết thức ăn, biết tập khởi (nhân sinh khởi) thức ăn, biết được đoạn-diệt thức ăn, biết con đường đưa đến đoạn-diệt thức ăn. Khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh-kiến". (Trung-bộ kinh -kinh Chánh tri-kiến)

Nói gọn cho dễ hiểu, là hành-giả phải biết rõ nhân-duyên của pháp ấy, biết rõ pháp ấy diệt do nhân-duyên nào và đạo lộ đưa đến sự đoạn-diệt pháp ấy. Ðó gọi là sự thấy đúng, hiểu đúng, là đặc-tính của chánh-kiến. Nhiệm-vụ của chánh-kiến là làm hiển-lộ các giới (dhāṭu).

Hiểu biết đúng là một việc, thành-tựu lại là việc khác. Nói cách khác, hiểu biết đúng và kết quả của hiểu biết ấy là hai điều khác nhau. Chánh-kiến là hiểu biết đúng, thành-tựu của chánh-kiến là phá hủy được vô-minh.

Trưởng-lão Musīla nói rằng: "Do hữu (bhava) diệt nên các lậu-hoặc đoạn tận". Các tỳ-khưu nói rằng:

- hư vậy, Ngài Musīla là bậc A-la-hán.

Ngài Musīla im lặng. Và một vị trưởng-lão khác nói rằng: "Ny chư hiền! Do hữu diệt nên các lậu-hoặc bị đoạn tận, nhưng này chư hiền, tôi chưa đắc quả A-la-hán. Tôi có một ví dụ như sau: Một người đang bị nhiệt-não do nóng bức, người ấy đi đến cái giếng, nhìn xuống giếng thấy có nước, y biết nước này sẽ giải-thoát được nhiệt não của nóng bức, nhưng trên giếng không có gàu cũng không có sợi dây nào cả. Nên y chưa giải-thoát được nóng bức, tuy biết rằng: nước sẽ giải-thoát được nóng bức".

Hiểu biết đúng là trạng-thái của chánh-kiến, cần phải tu-tập chánh-kiến, nhưng bằng cách nào? Bằng cách liên-hệ đến viễn-ly, liên-hệ đến từ bỏ, hướng tâm đến Níp-bàn.

Viễn-ly cái gì? từ bỏ (pahanaṭṭha) cái gì? Viễn-ly ác bất-thiện pháp, từ bỏ ác bất-thiện pháp.

Trong Paṭisambhidā magga có giải thích: viễn-ly có năm loại:

1- Áp chế viễn-ly: là vị tu-tập Sơ-thiền đang áp chế năm triền cái.

2- Tịnh-chỉ viễn-ly: là tịnh-chỉ tà-kiến bằng chánh-kiến, tịnh-chỉ tà tư-duy bằng chánh tư-duy ... tịnh-chỉ tầm, tứ, hỷ-lạc của vị tu tiến định.

3- Trừ-tuyệt viễn-ly: là vị tu tiến đạo siêu-thế đưa đến tận diệt phiền-não.

4- Khinh-an viễn-ly: là sự an-tịnh trong Thánh quả.

5- Xuất-ly viễn-ly: là nơi diệt-tận mọi phiền-não tức là Níp-bàn.

Mỗi chi đạo đều có năm viễn-ly này. Ðức Phật có dạy:

"Này chư tỳ-khưu! Ðiềm báo trước mặt trời mọc là rạng đông. Cũng vậy điềm báo trước Thánh-đạo tám ngành xuất hiện là làm bạn với thiện.

Này chư tỳ-khưu! Ðiềm báo trước mặt trời mọc là rạng đông. Cũng vậy, điềm báo trước lý Thánh-đạo tám ngành xuất hiện là thành-tựu Giới-hạnh.

Này chư tỳ-khưu! Ðiềm báo trước mặt mặt trời mọc là rạng đông. Cũng vậy, điềm báo trước Thánh-đạo tám ngành xuất hiện là đầy đủ tác-ý đúng (yoniso manasikāra sampadā), hướng tâm đến Níp-bàn chính là đầy đủ tác-ý đúng". (Tương-ưng kinh)

Ngài Sārīpuṭṭa có dạy căn-bản của thiện là: "Không sát-sanh, không trộm-cắp, không tà-hạnh trong dục, không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói ác, không nói phù phiếm, không tham-dục, không sân-hận vào tà-kiến". (kinh Chánh tri-kiến)

Vậy căn-bản của thiện là Giới-tịnh. Như vậy, nhân cần thiết để chánh-kiến xuất hiện là: làm bạn với thiện, tác-ý đúng và giới trong sạch.

Chánh tư-duy là tên gọi của sở-hữu tầm. Chánh tư-duy là yếu tố dẫn đến tuệ.

Ðược gọi là chánh tư-duy vì đó là sự tìm kiếm những gì không liên-hệ đến dục-lạc, tìm kiếm những gì không liên-hệ đến oán-thù, tìm kiếm những gì không liên-hệ đến ác-hại (thuật ngữ gọi là ly-dục tầm, vô-sân tầm, vô-hại tầm).

Chính trong bốn chánh-cần, tầm ly-dục hiển-lộ rõ nhất, đó là loại tư-duy, tìm kiếm con đường thoát ra nguy-hiểm của dục-lạc vật-chất, thoát ra còn khổ luân-hồi (vaṭṭadukkha).

Hành-giả là người tu-tập Chỉ-tịnh, nếu suy-tư về đề mục Từ (meṭṭā) kết hợp với các tầng thiền, gọi là tư-duy về vô-sân (hay vô-sân tầm). Nếu suy-tư đến đề mục Bi (kārunā), kết hợp với các tầng thiền, gọi là tư-duy về vô-hại (hay vô-hại tầm). Còn các đề mục khác ngoài hai đề mục Từ -Bi, gọi là tư-duy về ly-dục.

Trong lãnh-vực thiền Chỉ, chi tầm hay chánh tư-duy là pháp cần được sanh-khởi đầu tiên và nó hiển-lộ rõ trong giai-đoạn Tiên-khởi định. Còn trong lãnh-vực thiền Quán, chánh tư-duy hiện rõ ở tuệ Dục-thoát (muñciṭukamyaṭāñāṇa).

Và ba uẩn Giới-định-tuệ bao trùm tám chi đạo.

"Này hành-giả Visākha! tám Thánh-đạo không bao gồm trong ba uẩn nhưng ba uẩn bao gồm cả tám Thánh-đạo". (kinh Tiểu hữu-minh, Trung-bộ)

Bậc Dự-Lưu (soṭāpaṭṭi)

Hành-giả ghi nhận rằng: "Tập sách này chỉ nhắm đến tầng Thánh thấp nhất là bậc Dự-lưu". Vì sao? Vì người chứng-đắc được Dự-lưu quả, đó là điều yêu cầu tối thiểu của Giáo-pháp của Ðức Thế-tôn, cho dù ở phẩm mạo nào (cư-sĩ hay bậc xuất-gia).

Trong thời hiện-tại của đức Phật có các vị cư-sĩ như bà Visākhā, ông Anādhapiṇḍika, vua trời Ðế-thích, tứ Ðại-thiên-vương ... đó là những vị đắc Thánh quả Nhập-lưu, hưởng an lạc trong luân-hồi và đang sống ở cõi trời.

Vì sao gọi là Dự-lưu (soṭāpaṭṭi)? Soṭa theo nguyên ngữ là dòng nước, nước của năm con sông lớn như: Gaṅgā, Aciravaṭī... xuất phát từ dãy Hy mã lạp sơn, xuôi về biển, hướng về biển, nó không chảy ngược lại bao giờ. Tương-tự như thế, bậc Thánh đầu tiên đã chứng ngộ Níp-bàn, vị ấy có chậm thế nào rồi cũng đắc quả Vô-lậu, đạt được giải-thoát khỏi luân-hồi, điều này được đức Phật khẳng định như vậy, vị Thánh Dự-lưu không còn quay trở lại khổ-cảnh, không còn quay trở lại trạng-thái phàm-phu, nếu vị Thánh Dự-lưu chứng-đắc thiền-định, sanh về cõi phạm-thiên, cho dù chưa giải-thoát, vị ấy cũng không rơi trở xuống dục-giới, còn ở Dục-giới thì cũng không quá bảy kiếp, ví như nước cứ xuôi chảy ra đại dương không còn quay trở lại. Do đó, vị ấy gọi là bậc Nhập-lưu (soṭāpaṭṭi).

Phàm-phu dù đạt được địa vị cao tột ở cõi người như vua Chuyển-luân, hay cõi chư-thiên như Sakka (vua trời Ðế-thích), hoặc là vị Ðại phạm-thiên chăng nữa, vẫn còn bị tái-sanh vào địa-ngục hoặc loài súc-sanh, ngạ-quỉ.

Trái lại, bậc Thánh Dự-lưu đã thoát khỏi bốn cảnh khổ này rồi, các Ngài chỉ có cảnh giới là người hoặc chư-thiên. Cho dù ở cảnh giới nào chăng nữa, các Ngài chỉ tái-sanh về cảnh giới cao hơn, chứ không lui sụt xuống cảnh giới thấp, cho đến khi các Ngài Vô-dư Níp-bàn.

Con đường đạo thẳng tắp này được gọi là dòng nước pháp (dhammasoṭa). Dòng pháp-lưu này bao gồm: dòng chánh-kiến (sammādiṭṭhi soṭa), dòng chánh tư-duy (sammā saṅkappa soṭa)... dòng chánh-định (sammā samādhi soṭa).

"Dòng chánh-kiến" biết được sự khổ, đoạn trừ được nguyên-nhân sanh khổ là ái, tác chứng được diệt là Níp-bàn và đạo-đế được tu-tập. Ánh sáng của bốn chân-lý được thấy rõ ràng trong dòng chánh-kiến, dòng chánh-kiến này cuốn trôi vùng thân-kiến cùng nghi-hoặc, để thành lập một vương quốc mới, "vương quốc Ánh-sáng". Dòng chánh-kiến giống như mặt trời mọc xua tan bóng tối của đêm đen, "Minh sanh vô-minh diệt", cho dù trải qua hằng ngàn đại kiếp, ánh sáng chánh-kiến này vẫn tồn tại suốt nhiều kiếp sống của người đó, cho đến khi vị ấy chứng-đắc Vô-dư Níp-bàn.

Ánh sáng chánh-kiến này ngày càng được sung-mãn, rực sáng hơn, không hề có sự giảm sút sức mạnh.

Ví như một người khi sinh ra đã bị mù, được vị lương y đại tài, chữa trị đúng cách, dùng những dược chất đúng mức. Y thoát ra cảnh tăm tối, nhìn thấy được vạn vật muôn màu, muôn vẻ. Từ lúc nhận được ánh sáng của mặt trời, y nhận-thức, biết được rừng, núi, bầu trời, trăng, sao... và sự nhận biết cùng sự sáng mắt ấy kéo dài mãi, cho đến khi y mệnh-chung.

Tương-tự như vậy, bậc Thánh Nhập-lưu có được tri-kiến, thấy được ba tướng, cùng bốn sự-thật. Ðây là cách chi đạo chánh-kiến an-trú vững (là an-trú vào bốn sự-thật).

Kinh Mahācaṭṭārīsaka - Ðại-tứ-thập-kinh trong Trung-bộ có ghi:

"Sammādiṭṭhissa sammāsaṅkappo pahoṭi: Do có chánh-kiến, chánh tư-duy được sanh lên".

Ý nói rằng: khi chánh-kiến được an-trú vững-chắc trong bốn sự-thật, thấy được hiểm-họa của luân-hồi. Khi ấy, chánh tư-duy sanh-khởi giúp cho chánh-kiến soi thấu rõ ba tướng vô-thường, khổ, vô-ngã. Ðồng thời có ý tìm cách thoát khỏi ra cái khổ của thế-gian.

Chánh tư-duy của chi đạo là tìm cách thoát ra khỏi thế-gian (nekkhamma saṅkappa), đó là mục-đích chính, ngoài ra còn liên-hệ đến ý không oán-thù, không làm hại người khác.

Dòng chánh tư-duy cũng được an-trú và phát-triển mạnh như chánh-kiến trong bậc Thánh Nhập-lưu. Sở dĩ chánh tư-duy được trú-vững trong tâm của bậc Nhập-lưu là vì đoạn trừ-tuyệt dứt ganh tỵ (issā), bỏn xẻn (macchāriya) hai bất-thiện pháp này thuộc về nhóm sân.

Ngài Mahākoṭṭhiṭa có hỏi rằng:

- Này hiền-giả Sārīpuṭṭa! Chánh-kiến sanh-khởi do nhân gì?

- Này hiền-giả! do nhân nghe (diệu pháp) và Chánh tư-niệm (yoniso manasikāra). (kinh Trung-bộ)

Sở dĩ, Ngài Sārīpuṭṭa đáp như thế, vì Ngài thành-tựu quả Dự-lưu khi nghe kệ-ngôn vắn tắt của Trưởng-lão Assaji, đồng thời suy niệm về ý-nghĩa kệ-ngôn ấy.

"Sammāsaṅkappassa sammāvācā pahoṭi - Do chánh tư-duy, chánh-ngữ sanh lên".

Khi có ý-niệm về giải-thoát khỏi khổ của thế-gian, không bị sân-độc quấy nhiểu, không bị sự ác hại ẩn trú trong tâm, tất nhiên lời nói được thanh-tịnh. Vì chánh tư-duy có:

Xuất-ly tầm là ra khỏi tham-dục.
Ly sân tầm là ra khỏi sân-độc.

Ba ác-ngữ có căn cội từ tham, sân là nói dối, nói hai lưỡi (hai loại này do tham -sân điều khiển), nói độc ác (do tâm có ác ý, có ý hảm hại điều sử) không còn.

Chánh tư-duy giúp cho chánh-kiến thấy đúng, nên ảo tưởng bị diệt trừ, nên nói phù phiếm cũng được tịnh-chỉ.

Vì thế, chánh tư-duy làm sanh-khởi chánh-ngữ. Tức là, chánh tư-duy làm cho bốn ác-nghiệp về lời nói không còn.

"Sammāvācassa sammākammanṭo pahoṭi - Do có chánh-ngữ nên chánh-nghiệp sanh".

Khi chánh-ngữ được an-trú trong tâm, các hành động sẽ thoát ra ba ác-hạnh về thân. Như thế, chánh-nghiệp cũng được an-trú, đồng thời được phát-triển.

"Sammākammanṭassa sammā-ājīva pahoṭi - Do có chánh-nghiệp nên chánh-mạng sanh".

Khi lời nói an-tịnh, hành động của thân an-tịnh, thì các hình-thức nuôi mạng cũng an-tịnh, người ta không bao giờ sử dụng những hình-thức thấp hèn để nuôi mạng. Ðây là cách chánh-mạng được an-trú và phát-triển.

"Sammā-ājīvassa sammāvāyāmo pahoṭi: Do có chánh-mạng nên chánh tinh-tấn sanh".

Khi sự nuôi mạng được trong sạch, thì không hề sanh-khởi sự cố-gắng ủng hộ sự nuôi mạng sái-quấy, chỉ còn là sự nỗ-lực ủng hộ cho sự sống được thanh-tịnh tốt đẹp, đó là chánh tinh-tấn.

"Sammāvāyāmassa sammāsaṭi pahoṭi - Do có chánh tinh-tấn nên chánh-niệm sanh-khởi".

Tương-tự, chánh-niệm là pháp trú-vững do nương vào sự nỗ-lực ghi nhận, nói cách khác, chánh-niệm có gốc rễ ở chánh tinh-tấn. Do đó, khi chánh tinh-tấn sanh lên, chánh-niệm cũng sanh-khởi.

"Sammāsaṭissa sammāsamādhi pahoṭi - Do có chánh-niệm nên chánh-định sanh".

Chánh-định được an-trú thường xuyên khi có sự trú-vững của chánh-niệm hỗ-trợ.

Chính nhờ cách này mà tám chi đạo được gọi là dòng nước pháp an-trú vững-chắc kể từ lúc vị ấy chứng-đắc Dự-lưu đạo, đồng thời từng bước phát-triển qua suốt nhiều kiếp sống và nhiều đại kiếp, cho đến khi Vô-dư Níp-bàn.

Ðoạn kinh trên, có lẽ khó hiểu với những người ít tham cứu kinh-điển, nhất là ít học tạng Abhidhamma.

Trước tiên, hành-giả nên nhận-định rằng: Có tám chi chánh-đạo, tức là phải có tám chi tà-đạo, nghĩa là có chánh-kiến, tức phải có tà-kiến, có chánh tư-duy tức là có tà tư-duy ...

Hãy loại trừ phần tà đạo ra khỏi lãnh-vực này, ở đây chỉ bàn về tám chi chánh đạo, mỗi chi đạo lại có hai phần: hữu-lậu và vô-lậu.

Hữu-lậu là cho quả phước an lạc liên-hệ, dính mắc trong luân-hồi, dính mắc với tái-sanh.

Vô-lậu là cho quả giải-thoát khỏi luân-hồi bằng cách đoạn trừ ô-nhiễm, đoạn-diệt nghiệp.

Như Dự-lưu đạo, giải-thoát khỏi bốn khổ-cảnh, tận trừ những ô-nhiễm dẫn đến bốn khổ-cảnh, đoạn-diệt nghiệp cho quả tái-sanh vào bốn khổ-cảnh. Bất-lai đạo đoạn-diệt nghiệp cho quả tái sanh vào dục-giới, A-la-hán đạo đoạn-diệt nghiệp cho quả tái sanh vào luân hồi.

Từng chi đạo hữu-lậu, vô-lậu được Ðức Thế-tôn giảng thuyết rõ ràng trong kinh Mahā caṭṭārisaka ở Trung-bộ kinh.

Thế nào là chánh-kiến hữu-lậu? Chánh-kiến hữu-lậu (sammādiṭṭhi sāsavā) là loại chánh-kiến thuộc phước báu, đưa đến quả báo còn trong luân-hồi, (upadhivepakkā).

Thế nào là chánh-kiến vô-lậu? Chánh-kiến vô-lậu (sammādiṭṭhi anāsava), siêu-thế thuộc chi đạo.

Chánh-kiến hữu-lậu là loại chánh-kiến biết rõ nhân-quả, có quả báo của thiện-ác, bố-thí có quả, có đời này, có đời khác, có cha, có mẹ, có chúng-sanh là hạng hóa sanh ...

Chánh-kiến vô-lậu là trí đưa đến giải-thoát, bao gồm tuệ-quyền, tuệ-lực, trạch-pháp giác-chi, tất cả được thành-tựu trong tâm đạo siêu-thế, đưa đến diệt nghiệp.

Thế nào là Chánh tư-duy hữu-lậu?Là xuất-ly tư-duy, vô-sân tư-duy, vô-hại tư-duy thuộc về phước báu, cho quả liên-hệ tái-sanh (upadhi-vepakkā).

Thế nào là Chánh tư-duy vô-lậu thuộc chi đạo? Là cái gì thuộc suy-tư, tầm cầu ngữ hành (vācāsaṅkhāra), do hoàn toàn chú tâm của vị tu-tập Thánh-đạo. Do đó, Ðức Thế-tôn dạy rằng: "Sammā saṅkappassa sammāvācā pahoṭi".

Thế nào là Chánh-ngữ hữu-lậu?Là lánh xa bốn ác-ngữ.

Thế nào là Chánh-ngữ vô-lậu? Là từ bỏ, trừ diệt bốn ác-ngữ.

Thế nào là Chánh-nghiệp hữu-lậu? Là lánh xa ba ác-hạnh của thân.

Thế nào là Chánh-nghiệp vô-lậu? Là từ bỏ, trừ diệt ba ác-hạnh của thân.

Thế nào là Chánh-mạng hữu-lậu? Là lánh xa tà-mạng.

Thế nào là Chánh-mạng vô-lậu? Là từ bỏ, trừ diệt tà-mạng.

Chánh tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định cũng hiểu theo lý ấy.

Nhưng vì sao chánh-ngữ sanh-khởi cho chánh-nghiệp, chánh-nghiệp lại sanh-khởi cho chánh-mạng?Là do có chánh tinh-tấn hỗ-trợ, chính trong chánh tư-duy có sự hỗ-trợ của chánh tinh-tấn, bằng "nỗ-lực suy-tư".

Thông-thường nỗ-lực trong lời nói so với nỗ-lực của thân thì nỗ-lực của thân phải mạnh hơn, nhưng để làm cho ý thanh-tịnh thì phải gia tăng sức mạnh của chánh tinh-tấn.

Nên nói rằng: "chánh-ngữ do chánh tư-duy trợ sanh, chánh-nghiệp do chánh-ngữ trợ sanh, chánh-mạng do chánh-nghiệp trợ sanh" là ám chỉ cấp độ sức mạnh của chánh tinh-tấn.

Nhưng sự trợ sanh này không phải có trước có sau trong tâm đạo, sự trợ sanh này có tính đồng bộ một loạt. Trong tạng Diệu-pháp, đức Phật gọi là Ðồng sanh-duyên (sahājāṭa paccaya).

Ví như ngọn lửa và ánh sáng đồng sanh-khởi, khi có ngọn lửa lập tức có ánh sáng ngay, không trước không sau.

Hay ví như, có tám người dân chài muốn đẩy chiếc thuyền nặng xuống nước, nếu mỗi người vận lực trước, sau thì chiếc thuyền vẫn bất động, trái lại cả tám người cùng vận lực đồng nhất, khi lực ấy đủ sức mạnh thì chiếc thuyền bị đẩy xuống nước ngay. Tức là tám loại sức mạnh cùng lúc hiện khởi.

Nhưng nói rằng: tám chi đạo có chánh-kiến dẫn đầu là sao?Ví như tám người dân chài ở trên, một trong số tám người này, y cũng ra sức đẩy thuyền, nhưng y ra hiệu lịnh bằng cách đếm 1,2,3, dứt tiếng ba, cả tám người cùng nỗ-lực đẩy thuyền. Do đó, gọi người này là người dẫn đầu.

Mặt khác, nhiệm-vụ của chánh-kiến là xua đuổi vô-minh, trừ diệt ô-nhiễm, ví như người có nhiệm-vụ soi rọi những cứ điểm phát-sinh tai-họa, giúp cho những người đồng hành phá hủy các cứ điểm ấy tùy theo nhiệm-vụ của họ, chính bản thân người soi rọi cũng tham gia vào việc phá hủy để các tai hại không còn sinh khởi trong tương-lai. Nên gọi y là người dẫn đầu.

Giới-uẩn có phận-sự phá hủy những cứ điểm phát-sinh những phiền-não thô sơ, Ðịnh-uẩn có phận-sự phá hủy những cứ điểm phát-sinh những phiền-não trung bình, Tuệ-uẩn có phận-sự phá hủy những cứ điểm phát-sinh những phiền-não vi tế.

Do đó trong tâm đạo, tám chi đạo có mặt đầy đủ.

Nhưng tám Chi-đạo này an-trú ở đâu? Trong lúc đang sát trừ ô-nhiễm, đoạn tận nghiệp, tám chi đạo an-trú trong tâm đạo siêu-thế, sau khi đã đoạn trừ nghiệp cùng những ô-nhiễm, tám chi đạo an-trú trong tâm quả siêu-thế.

Khi tâm quả siêu-thế hoại, tám chi đạo ra sao? Tám chi đạo cũng hoại nhưng thành-tựu của tám chi đạo vẫn còn. Vì tám chi đạo là pháp hữu-vi, dĩ nhiên cũng phải chịu định-luật vô-thường biến hoại.

Tám chi đạo do duyên danh-sắc mà sanh-khởi, khi danh-sắc ấy diệt, tám chi đạo cũng diệt. Nhưng phận-sự cắt đứt nghiệp luân-hồi, thành-tựu bậc Thánh, ra khỏi dòng phàm của bậc Dự-lưu vẫn còn. Cắt đứt nghiệp luân-hồi gì? Cắt đứtnghiệp luân-hồi trong bốn ác đạo.

Ví như một học sinh, sự học được sanh lên, do sự dạy dỗ của các vị thầy trong năm học. Khi năm học kết thúc, sự dạy dỗ của các vị thầy chấm dứt, thế là sự học của người học sinh ấy cũng hết, nhưng sự thành-tựu kiến thức không vì thế mà hoại.

Cũng vậy, tám chi đạo nương sanh từ danh-sắc, bao giờ danh-sắc còn, thành-tựu của tám chi đạo còn, sự thành-tựu tám chi đạo hoàn toàn tuyệt dứt khi không còn danh-sắc, nghĩa là vị ấy Vô-dư Níp-bàn.

Vị đạt được tầng Thánh Dự-lưu, do tám chi đạo này đồng hiện khởi trong tâm, sẽ thoát ra trạng-thái phàm-phu, không còn là chúng-sanh của thế-gian, mà đã trở thành chúng-sanh xuất thế-gian, vị ấy không còn bị cuốn hút theo cái khổ luân-hồi tuy vẫn còn luân chuyển trong luân-hồi. Ví như người khách đến trú trong một đất nước khác, người này không bị ràng buộc bởi tục-lệ, nghi-thức, truyền-thống của dân tộc ấy, tuy nhiên phải tuân thủ luật-pháp của đất nước họ.

Cũng vậy, tuy vị Thánh Nhập-lưu còn luân chuyển trong luân-hồi, tuy vẫn phải chịu định-luật sinh diệt của danh-sắc, nhưng những tạp-nhiễm, thối đọa của luân-hồi, các Ngài không bị cuốn hút, ràng buộc vào chúng.

Sau khi đã trở thành một chúng-sanh của Níp-bàn, các Ngài không còn bị trở lui khỏi giai-đoạn giải-thoát, không còn trở lại vùng tùy-miên của thân-kiến. Các ngài trú vững-chắc trong giai-đoạn đầu của Hữu-dư Níp-bàn.

Suốt thời gian còn lại của dòng luân-hồi, cho đến khi các Ngài Vô-dư Níp-bàn cảnh giới tái-sanh của các Ngài chỉ có thể là người, chư-thiên hay phạm-thiên.

Tám chi đạo tuy chỉ hiện trong tâm đạo siêu-thế, nhưng những nghiệp thiện hiệp-thế vẫn có liên-hệ đến tám chi đạo này.

Ba chi phần của Giới-uẩn chỉ kết hợp với những thiện-nghiệp liên quan đến giới.

Còn Ðịnh-uẩn, Tuệ-uẩn kết hợp được nhiều loại thiện-nghiệp.

Trong ba chi đạo của Giới-uẩn chỉ kết hợp với những thiện-nghiệp thuộc về giới, nhưng vẫn trú-vững trong phạm vi "không vi-phạm giới" của bậc Thánh trong suốt kiếp luân-chuyển còn lại của Ngài, Dự-lưu quả được Ðức Thế-tôn tán-thán còn hơn cả địa-vị của vua Chuyển-luân có bảy báu.

Nhưng nhân cần thiết để chứng đạt quả vị Dự-lưu là gì?

- "Dự-lưu phần, Dự-lưu phần! Này Sārīpuṭṭa. Thế nào là Dự-lưu phần?

- Bạch Thế-tôn! Thân-cận bậc chân-nhân là Dự-lưu phần. Nghe diệu-pháp là Dự-lưu phần. Như-lý tác-ý là Dự-lưu phần. Thực-hành pháp và tùy pháp là Dự-lưu phần.

-Lành thay! Lành thay! Này Sārīpuṭṭa". (Tương-ưng kinh)

Ðó là nhân cần thiết để thành-tựu quả Dự-lưu.

THỰC-HÀNH PHÁP TRỢ-ÐẠO

Chúng-sanh gặp được giáo-pháp của đức Phật, có tâm tầm cầu đạo-quả siêu-thế, nên theo trình-tự của bảy pháp thanh-tịnh.

Trước tiên, nên thực-hành giới cho được thanh-tịnh, rồi nỗ-lực tinh-cần hành những pháp trợ-đạo, để nhập vào dòng nước thánh (ariya soṭa).

Sự thực-hành bảy pháp thanh-tịnh, dẫn đến thành-tựu các pháp trợ-đạo, nhưng tùy theo sự thực-hành của hành-giả có vài điểm khác biệt.

Tâm-tịnh theo bộ Visuddhi magga, chỉ liên quan đến hành-giả thuần Chỉ-tịnh, cận-định cũng bao gồm trong tâm-tịnh.

Cận-định là điều-kiện cần thiết phải có để bước vào hành-trì Minh-quán.

Về Ðạo-phi-đạo tri-kiến-tịnh chỉ liên quan đến người tăng thượng mạn (adhimāna), là người có tánh tự cao, có sự hiểu lầm: "Ta đã chứng-đắc đạo-quả", thật ra là chưa chứng-đắc chi cả.

Năm pháp thanh-tịnh là: Giới-tịnh, Kiến-tịnh, Ðoạn-nghi tịnh, Hành tri-kiến tịnh và Tri-kiến tịnh, ứng dụng cho nhiều dạng người.

Giới-tịnh, tâm-tịnh được đề cập ở những phần trước. Kiến-tịnh được xem là thành-tựu, nếu hành-giả có thể phân-tích nhận biết được sáu nguyên-chất: đất, nước, lửa, gió, hư-không và thức.

Nếu hành-giả nhận biết rõ nhân sanh-khởi, nhân thành-tựu và nhân diệt mất của sáu nguyên-chất (dhāṭu) xem như hành-giả hoàn thành được giai-đoạn Ðoạn-nghi tịnh. Nhân sanh và nhân diệt của sáu nguyên-chất ấy là: Nghiệp, tâm, vật-thực (āhāra) và thời-tiết (uṭu).

Nguyên-nhân làm sanh-khởi sáu thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý (thức) là sáu cảnh tương ứng của thức.

Tri-kiến tịnh ám chỉ đến ba đặc-tướng vô-thường, khổ, vô-ngã. Nếu ba tướng này được nhận biết rõ ràng qua những nguyên-chất trên, thì pháp thanh-tịnh này xem như thành-tựu.

Tri-kiến tịnh hay xuất thế-gian tri-kiến tịnh là tuệ liên-quan đến bốn Thánh-đạo.

Ðó là tóm lược bảy thanh-tịnh trong quá-trình tu-tập của hành-giả.

* * *

DI-SẢN GIÁO-PHÁP

Ba mươi bảy pháp đưa đến giác-ngộ được trình giải trong những chương trước, đó là di-sản của đức Phật. Những pháp này là những viên bảo ngọc, được kết thành xâu chuỗi vô giá. Di-sản là tài-sản của cha-mẹ để lại cho con một cách hợp pháp, người con xứng đáng thừa hưởng là người gìn-giữ, phát-triển di-sản ấy ngày càng sung-mãn và người này phải làm theo lời di-chúc của cha-mẹ.

Di-sản của đức Phật (buddha dāyajja) để lại là bảy thánh tài: tín, giới, tàm, quí, văn, thí, tuệ với lời di-chúc là: "Này các tỳ-khưu! các pháp hữu-vi là vô-thường, hãy tinh-tấn, chớ có dể-duôi".

Nói rộng hơn, tài-sản để lại của Ðức Thế-tôn là giáo-pháp của Ngài, một giáo-pháp có mục-đích diệt nhân sanh khổ, đưa đến giải-thoát và ba mươi bảy pháp trợ-đạo là những phương-án tích-cực để đạt đến mục-đích ấy.

Về tính-chất, di-sản của đức Phật có hai loại: Di-sản thế-gian và di-sản giáo-pháp. Di-sản thế-gian là bốn món vật-dụng: vật-thực, y-phục, chỗ ngụ và thuốc trị bệnh dành cho vị tỳ-khưu. Di-sản giáo-pháp: là tam học (ṭisikkhā) đó là: Giới-học, định-học và tuệ-học, bảy pháp thanh-tịnh, ba mươi bảy pháp trợ giác-ngộ.

Di-sản giáo-pháp có hai loại:

- Di-sản giáo-pháp thuộc thế-gian: là ba loại pháp: Giới-học, định-học, tuệ-học còn liên quan đến luân-hồi, sáu pháp thanh-tịnh, ba mươi bảy pháp trợ-đạo còn liên-hệ đến thế-gian.

- Di-sản giáo-pháp thuộc xuất thế gian là tam học không liên quan đến luân-hồi, pháp thanh-tịnh thứ bảy, ba mươi bảy pháp trợ-đạo ra khỏi thế-gian.

Pháp-sản (dhamma dāyajja) của Ðức Thế-tôn, ở khía cạnh khác có thể phân thành hai loại:

- Pháp-sản bền-vững (niyaṭa), đó là pháp-sản dẫn đến sự chấm dứt ba loại luân-hồi. Ðó là sự thực-hành Giới-định-tuệ đưa đến giải-thoát.

Có ba loại luân-hồi: phiền-não luân-hồi, nghiệp luân-hồi và quả luân-hồi. Ba loại luân-hồi này được đoạn trừ từng phần trong tâm đạo siêu-thế, khi đạt đến Vô-dư Níp-bàn xem như hoàn toàn giải-thoát. Vị Thánh A-la-hán khi còn danh-sắc, chỉ còn quả luân-hồi hiện-tại đang trổ, còn phiền-não luân-hồi, nghiệp luân-hồi và quả luân-hồi vị-lai Ngài đã đoạn-diệt hoàn-toàn.

- Pháp-sản không bền-vững (aniyaṭa) là sự thực-hành tam học chưa đi đến giải-thoát ba loại luân-hồi, kết quả của sự thực-hành này đưa đến thành-tựu vương-quyền, chư-thiên, phạm-thiên... kết-quả này vẫn còn bị định-luật luân-hồi điều-khiển.

Ðã đành có rồi mất, nhưng mãnh-lực quay trở lại điểm cũ cũng vẫn còn, khác với pháp-sản bền-vững, chỉ có vượt lên chứ không quay lại, dù vẫn bị định-luật vô-thường chi phối.

Do tính-chất đặc biệt này, nên người hưởng di-sản của Ðức Thế-tôn cũng có hai loại: Người thừa hưởng bền-vững và người thừa hưởng không bền-vững di-sản của đức Phật.

Người không có được trí thực-chứng về tam tướng, đó là người thừa hưởng không bền-vững di-sản của đức Phật, giống như người con thừa hưởng gia tài lớn của cha để lại, nhưng đam mê trụy lạc, cuối cùng trở nên người nghèo khổ, khánh tận gia-sản, phải chịu khổ trong cảnh túng quẩn.

Những người này, hôm nay có thể là đệ tử trong giáo-pháp của đức Phật, ngày mai có thể là đệ tử của một đạo sư khác ở ngoài giáo-pháp này. Và họ có thể trở thành " kẻ phỉ báng -phá hoại giáo-pháp của đức Phật".

Ngay trong hiện-tại, một số người từng bỏ đức-tin nơi đức Phật-Pháp-Tăng để theo tôn-giáo khác, như thế đã là một tổn thất lớn, nhưng cũng tạm cho là được, vì đức-tin không ai có thể cưỡng chế, nhất là trong giáo-pháp này không có vấn đề cưỡng bức đức-tin. Thế nhưng, họ còn quay lại phỉ báng và phá hoại giáo-pháp của đức Phật, đó là do đâu? Là do không có tri-kiến về thiện và bất-thiện.

Trong khi toàn bộ giáo-pháp này chỉ rõ hai con đường: nên lánh xa, từ-bỏ, đoạn-diệt bất-thiện pháp, nên hành-trì, làm cho sung-mãn thiện-pháp.

"Này Ānanda! Toàn bộ giáo-pháp này là thiện bạn hữu". (Tăng-chi kinh)

Bậc trí nên suy-gẫm để chọn cho mình một đạo lộ tốt đẹp.

Người thừa hưởng không bền-vững di-sản của đức Phật, kiếp này có thể là đệ tử trong giáo-pháp đức Phật, nhưng kiếp sau có thể là đệ tử trong hệ thống giáo-lý khác.

Có câu nói rằng: "Gọi là phàm-phu vì thường đi tìm kiếm nhiều vị thầy". Nghĩa là, trong vô số kiếp quá-khứ kẻ phàm-phu chưa bao giờ bằng lòng một vị thầy mà họ nương nhờ. Những dịp gặp được đức Phật và quy ngưỡng trong giáo-pháp của Ngài thật hiếm hoi, đôi khi họ sùng bái phạm-thiên, đôi khi họ sùng bái "ông trời" (sakka), hoặc nhiều vị thần linh khác, đôi khi nương tựa vào khoa chiêm tinh (xem các vì sao -thiên văn), nương tựa vào thần đất (coi địa lý), những khoa đặc dị về chú thuật (manṭa) ... họ xem những nơi ấy là nơi ngự-trị của đấng toàn-năng, mặt khác, số giáo chủ tà-ngụy trong thế-gian cũng có rất nhiều. Và thế là, kẻ phàm-phu tiếp tục trôi lăn trong vòng luân-hồi, tích chứa nhiều ái-luyến, thân-kiến. Ðó là tính-chất đáng kinh-sợ của phàm-phu.

Khi nào kẻ phàm-phu tìm được sự nương tựa nơi giáo-lý chân-chánh, một giáo-lý có tính hướng thượng, mà cứu cánh là giải-thoát.

"Này Bà-la-môn! (chỉ cho Bà-la-môn Jāṇussoṇi). Ðối với sa-môn, nhẫn nhục, nhu hòa là mong muốn, trí-tuệ là cận hành. Giới-hạnh là điểm tựa, không sở-hữu là xu hướng. Níp-bàn là cứu cánh". (Tăng-chi kinh)

Ðôi khi phàm-phu chấp-nhận tăng-thượng giới-học (adhisīla paṭiyaṭṭi), tăng-thượng tâm-học (adhiceṭaso paṭiyaṭṭi), tăng thượng tuệ học (adhipaññā paṭiyaṭṭi) nhưng chưa đoạn trừ được vùng thân-kiến tùy-miên nên gặp phải chướng-ngại là tăng-thượng mạn, hiểu lầm mình đã chứng-đắc đạo-quả, tuyên bố rằng: "tôi thực-hành viên-mãn giới, tôi thực-hành viên-mãn tri-kiến, tôi biết rõ về danh-sắc...". Ðó là những lời tuyên bố về Giới-định-tuệ xoay quanh trục thân-kiến, xoay quanh " cái tôi ".

Nó giống như những hạt mưa rơi xuống vùng sa mạc khô khan nóng bỏng, những hạt mưa ấy bị sức nóng của thân-kiến hút hết, đồng thời làm cho nó biến mất.

Cũng vậy, vương quốc thân-kiến đầy nóng bỏng, khô khan hút hết Giới-định-tuệ của phàm-phu, làm cho chúng biến mất và phàm-phu ấy chỉ tạm thời làm chủ di-sản của đức Phật mà thôi. Ðây là hạng người thừa hưởng không bền-vững di-sản của đức Phật.

Thế nào là người thừa hưởng bền-vững di-sản của đức Phật? Ðó là bậc đã chứng đạt Thánh quả đầu tiên (quả vị Nhập-lưu), kể từ đó trở đi vị này thừa hưởng bền-vững di-sản của đức Phật.

Giới hiệp-thế của bậc Tu-đà-hườn bao gồm ba ác hạnh về thân, bốn ác-hạnh về lời nói và sự nuôi mạng trong sạch. Ðịnh hiệp-thế của bậc Dự-lưu được an-trú trong ân-đức của Tam-bảo, tuệ hiệp-thế của bậc Dự-lưu là sự thấy và rõ biết bốn Diệu-đế.

Giới-định-tuệ hiệp-thế ấy đều được an-trú vững-chắc, như những giọt mưa rơi xuống hồ lớn, được tồn tại trong vương quốc mát tịnh, hồ nước an-tịnh ấy ngày càng được sung-mãn. Cho dù trải qua nhiều kiếp sống, hồ nước ấy vẫn không hề bị suy giảm, đi đến khô cạn, mà càng ngày càng sung-mãn. Ví như người con thừa hưởng di-sản của người cha, theo đúng phương-pháp tạo thành tài-sản của cha chỉ dạy, cũng như gìn-giữ tài-sản ấy, tài-sản của người này ngày càng sung-mãn không hề bị suy giảm.

Chính trạng-thái siêu-thế của Giới-định-tuệ cùng các pháp trợ-đạo hiện khởi trong tám tâm siêu-thế (bốn tâm đạo và bốn tâm quả siêu-thế) hình thành tính-chất bền-vững của di-sản này.

Những vị Thánh, không còn có thể trở thành người ác-giới, người không có định, người vô trí-tuệ được. Ðây là bậc thừa hưởng bền-vững di-sản giáo-pháp của đức Phật.

Cũng cần bàn thêm: Vì sao không thể là người thừa hưởng bền-vững di-sản giáo-pháp của đức Phật?Vì là người thiếu niềm-tin và dục như-ý túc, nên sự thành-tựu những pháp thanh-tịnh bậc cao không thể hiện khởi, cho dù người này có ý tưởng ấy. Cũng giống như người học tụng kinh Pāli, chỉ cần tụng đọc được mà thôi, không cần hiểu biết nghĩa lý chi cả.

Cũng vậy, một số người khi qui ngưỡng vào Tam-bảo, họ chỉ biết hành-thiện như bố-thí, trì-giới, khi hỏi họ "thực-hành" những thiện-pháp ấy với mục-đích gì? Họ trả lời "để được như thế này, để được như thế kia ..." những kết quả ấy thật khiêm-tốn nhỏ nhoi, so với những gì họ có thể thành-đạt cao quí hơn.

Có lần bà Visākhā hỏi những người nữ tùy tùng: "thọ-trì bát quan giới để làm gì? Những người nữ trung niên đáp: "để có được những người con hiếu kỉnh cha mẹ". Những người nữ nhỏ tuổi hơn thì ṁong có được người chồng chung thủy, những người con xinh đẹp, ngoan ngoãn...".

Ðã thiếu niềm tin, lại khiếm khuyết dục như-ý, dĩ nhiên dẫn đến không tích cực nỗ-lực hành-đạo. Thiếu niềm tin ở đây, chỉ cho trạng-thái tự ti rằng: "Ta không thể đắc đạo-quả trong kiếp sống này, vì ta là người duyên mỏng, nghiệp dày...".

Nếu có nỗ-lực hành-đạo chăng, cũng chỉ là sự khiên-cưỡng, miễn-cưỡng, cố-gắng một cách yếu ớt. Vì yếu ý chí nên tâm của những người này không thể gắn bó vào sự hành-trì pháp niệm. Tất cả những điều-kiện xa, gần này dẫn đến trí-tuệ không được tỏ rạng, thế là họ chối bỏ công việc tu-tập, cho là vượt quá khả-năng của mình. Do vậy, đức Phật sách tấn chúng-sanh tìm giải-thoát khổ cho chính mình, bằng cách hỗ-trợ, tăng cường, làm sung-mãn những pháp như-ý túc đang yếu ớt, muội-lược của chính họ. Chỉ khi ấy, những ước muốn giải-thoát khổ mới sanh-khởi mãnh-liệt, giúp cho ý chí thêm kiên-định trong sự thực-hành pháp.

Người có một pháp như-ý túc nào đó, từ đó làm nền-tảng khởi sanh các pháp như-ý khác, đồng thời những pháp trợ-đạo cũng nương theo đó sanh lên, cuối cùng vị ấy đi đến giai-đoạn tri-kiến thanh-tịnh là giai-đoạn tất cả pháp trợ-đạo đều hội-tụ trong một cái tâm, cái tâm ấy gọi là tâm đạo. Và vị ấy trở thành người thừa hưởng bền-vững di-sản giáo-pháp của đức Phật.

Người không có pháp như-ý túc, chỉ có thể hưởng lợi-ích nhỏ nhoi của thiện-pháp, họ không có cơ hội nếm hương vị tinh hoa của giáo-pháp. Thậm chí, có khi không có cơ hội hưởng lợi-ích nhỏ, vì đã phá bỏ di-sản của mình, khi xa lìa di-sản của đức Phật.

Không có cơ hội hưởng lợi-ích nhỏ là khi nào? Khi không có tri-kiến về bản chất của thế-gian. Trong thế-gian rất ít chúng-sanh có được tri-kiến đúng, vì trải qua vô số kiếp quá-khứ đã nhận lãnh tà-kiến rất nhiều và đã tích lũy trong kho tùy-miên vô số loại.

Trong số những loại tà-kiến, sự cố chấp chiếm tỉ lệ cao, nguyên-nhân là gặp phải nhiều tà-sư, dẫn đến thọ-trì, thực-hành những pháp-hành tà-vạy.

Ngay cả Bồ-tát của chúng ta là Joṭipāla trong thời giáo-pháp của đức Phật Kassapa, cũng do sự cố-chấp vào kiến-thức của mình nói với vị Thánh A-na-hàm Ghaṭikāra rằng: "Ồ! Những ông sa-môn ấy có pháp gì để nghe chứ? Về sau, Bồ-tát được Ngài Ghaṭikāra dẫn dắt và Bồ-tát xuất-gia trong giáo-pháp của đức Phật Kassapa.

Một người có trí-tuệ, gần viên-mãn ba mươi pháp pāramī mà còn như thế, nói gì đến hạng phàm-nhân như chúng ta. Do thực-hành những pháp tà-vạy, cơ hội sinh làm người thật hiếm hoi (manussaṭa dullabha). Trong khổ-cảnh, ác quả dễ-dàng sanh-khởi như dây leo che lấp cây thiện-pháp, khiến cây thiện-pháp khó cho quả như-ý tốt tươi trong nhàn-cảnh.

Còn tri-kiến của những vị thuộc dòng Thánh, tri-kiến ấy được an-trú trong ba ân-đức Tam-bảo, càng ngày càng trong sáng thêm trong chuỗi luân-hồi còn lại của vị ấy.

Tất cả những di-sản quí báu của đức Phật, ngày càng hưng thịnh và sung-mãn trong tâm những vị ấy, những vị ấy chắc chắn sẽ đắc vô-thủ Níp-bàn, tức là vị ấy thành-đạt trọn vẹn Giới-định-tuệ trong bảy pháp thanh-tịnh. Ðây là chánh-đạo, con đường không lỗi lầm, con đường không có quanh co của những vị thừa hưởng vững-chắc di-sản giáo pháp của Ðức thế-tôn.

Những ai đã nương nhờ ân-đức Tam-bảo, nên lưu tâm rằng: "Ðức Phật không hề khen ngợi những người thừa-tự tài vật", đó là loại di-sản xấu trong giáo-pháp này, không nên tự cho mình là người có quyền thừa hưởng những di-sản xấu ấy, đó là người chỉ tạm thời hưởng di-sản của Ðức Thế-tôn.

Cần phải nỗ-lực phấn đấu để trở thành người xứng đáng thừa hưởng di-sản tốt đẹp của Ðức Thế-tôn, đó là người thừa-tự bền-vững khi thực-hành những pháp trợ-đạo, thành-đạt được mục-đích giải-thoát khổ.

Tuy nhiên, cần nên sách tấn những người thiếu trí-tuệ thực-hành những việc phước thiện, vì đó là nền-tảng cho sự thừa-tự bền-vững di-sản của đức Phật trong kiếp sau sau đó.

Ðối với người có trí, nếu muốn trở thành người thừa-tự bền-vững, nên an-trú tâm vào tám chi phần giới trong sạch (lánh xa ba thân ác-hạnh, lánh xa bốn ngữ ác-hạnh và không nuôi mạng sái-quấy). Nên an-trú niệm vào bốn pháp Niệm-xứ, nhất là niệm thân trong thân, mỗi ngày tối thiểu là ba giờ (180 phút), cố-gắng đạt cho được ba pháp tưởng về thân năm uẩn là vô-thường tưởng, khổ-tưởng và vô-ngã tưởng.

Và khi tiến tu pháp trợ-đạo chứng-đắc tầng thánh đầu tiên là Dự-lưu đạo, bấy giờ vị ấy là người thừa kế bền-vững giáo-pháp của Ðức Thế-tôn.

CHẤM DỨT PHÁP TRỢ-ÐẠO