Chương VII

BẢY GIÁC CHI
(Bojjhaṅga)

Danh từ Bojjhaṅga bao gồm hai phần: Bodhi + aṅga.

Bodhi ám chỉ chứng ngộ, giác-ngộ, nói một cách chính xác và rốt ráo là: Thông-đạt bốn chân lý tối thượng: chân lý về khổ, chân lý về nhân sanh khổ, chân lý về sự diệt khổ, chân lý về con đường đưa đến sự diệt khổ.

Aṅga nghĩa là yếu tố, thành-phần.

Bojjhaṅga nghĩa là thành-phần đưa đến sự giác-ngộ, chứng-đạt bốn sự-thật, thường được dịch là giác-chi.

Có sớ giải rằng:

Caṭu saccadhamme suṭṭhu bujjhaṭī’ṭi sambodhi aṅgo = sambojjhaṅgo.
"Các thành-phần dẫn đến sự thấu đáo đúng đắn về bốn pháp sự-thật gọi là giác-chi".

Chữ sambodhi còn được gọi là giác-ngộ vì hiểu biết (bodhi) đúng (sam) bốn sự-thật, hay hiểu biết hoàn toàn về bốn sự-thật.

Sambodhi ám chỉ cho tuệ-đạo, những yếu tố nào dẫn đến tuệ-đạo siêu-thế gọi là giác-chi hay giác-phần.

Trong Tương-ưng kinh có ghi rằng:

Có vị tỳ-khưu đi đến chỗ Ðức Thế-tôn ngự, sau khi đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên bạch hỏi rằng:

-Bojjhaṅga! Bojjhaṅga! được gọi như thế, bạch Ðức Thế-tôn, xin Ngài từ bi chỉ dạy, lời này có thể được áp dụng đến mức như thế nào?.

Ðức Phật dạy rằng:

"Bojjhaṅga samvaṭṭanṭīṭi kho bhikkhu ṭasmā bojjhaṅgā’ ṭi vuccaṭi...".
"Do dẫn đến giác-ngộ, vì lẽ ấy, này tỳ-khưu được gọi là bojjhaṅga (giác-chi)...".

Ðó là lời dạy mở đầu, tiếp theo Ngài giảng cho vị tỳ-khưu ấy về bảy giác-chi.

Theo Aṭṭhakaṭhā, sambojjhaṅga có bốn ý-nghĩa:

1- Là chi phần của người giác-ngộ chân-chánh (là chánh giải-thoát đối nghịch với tà giải-thoát).
2- Là pháp đồng sanh đưa đến giác-ngộ chân-chánh.
3- Là pháp làm cho tỉnh-ngộ, thoát ra sự si-mê, u-ám.
4- Là pháp giúp thành-tựu thông suốt bốn Diệu-đế.

Ðược gọi là giác-chi, vì liên-hệ đến viễn-ly, liên-hệ đến ly-tham, liên-hệ đến từ bỏ, liên-hệ đến đoạn-diệt.

Viễn-ly (xa lìa) cái gì? Xa lìa những trói-buộc ở bên ngoài như hội-chúng, danh-xưng, quyền-lợi, lợi-đắc ... trước khi thành-đạt giác-ngộ bốn pháp sự-thật.

Từ bỏ cái gì? Từ bỏ năm pháp chướng-ngại của tinh-thần.

Ðoạn-diệt cái gì? Ðoạn-diệt những nguyên-nhân dẫn đến luân-hồi.

Nói rõ hơn: viễn-ly -ly-tham (virāga) là tạm thời trừ (ṭadaṅgappahāna) những phiền-não, uế-trược ở vùng triền.

Từ bỏ là áp chế trừ (vikkhambhanappahāna) những phiền-não cấu uế, chủ yếu là năm pháp chướng-ngại ở vùng triền.

Và đoạn-diệt là trừ-tuyệt (samucchedappahāna) bằng đạo-tuệ ở vùng tùy-miên.

Ở đoạn khác, đức Phật dạy rằng:

"Này chư tỳ-khưu! Ví như các cây đà, cây kèo của ngôi nhà nóc nhọn, tất cả cây đà, cây kèo đều thiên về, hướng về, xuôi về nóc nhọn.
Cũng vậy, này chư tỳ-khưu! vị tỳ-khưu tu-tập bảy giác-chi, làm cho sung-mãn bảy giác-chi, thiên về, hướng về, xuôi về Níp-bàn".

Chim Kim-xí vương (supanarāja) có oai lực, tung hoành giữa hư không, khi vỗ cánh phát ra luồng gió mạnh, ảnh hưởng đến một vùng không gian rộng lớn. Trước khi Kim-xí điểu được lớn mạnh như thế, nó phải thoát ra khỏi bụng mẹ dưới hình-thức là cái trứng, rồi nó phải thoát ra khỏi cái trứng bằng cái mỏ nhọn của chính nó, khảy bể vỏ trứng. Nó ẩn náu trong tổ, được chim mẹ nuôi dưỡng cẩn thận, nó dần dần lớn mạnh. Và lần cuối cùng nó thoát ra tổ, tung cánh vào không trung lộng gió, nó muốn đến đâu tùy thích, đều được như-ý.

Cũng vậy, người tìm đạo giải-thoát, trước tiên phải thoát ra vùng tăm-tối khổ-não, như chim thoát ra bụng mẹ, vùng tăm-tối khổ-não ví như si-mê, ngu dốt, là sự không học hỏi những điều thiết-thực để thực-hành đi đến sự thoát khổ. Ẩn trú trong vỏ trứng an-toàn là: phòng-hộ môn quyền. Trong vòng phòng-hộ môn quyền, tích lũy ba thiện hạnh của thân -ngữ -ý (ám chỉ giới), để rồi lần thứ hai thoát ra những trói-buộc thô-thiển bên ngoài là: sắc, thinh, khí, vị, xúc bằng niệm (ví như thoát ra khỏi trứng bằng cái mỏ con chim). Ẩn trú trong tổ ví như hành bốn niệm-xứ, được nuôi dưỡng vật-thực để lớn mạnh ví như có tác-ý đúng. Cuối cùng thoát ra khỏi tổ, tung mình vào hư không rộng lớn, ví như hành-giả đã thành tựu bảy pháp giác-chi, được giải-thoát hoàn toàn.

Ðây là những ví dụ minh họa cho những trình-tự các pháp dẫn đến thành-tựu bảy giác-chi theo lý Duyên-sinh.

Những pháp trình-tự hình thành bảy giác-chi này, do ai giảng và có ở nơi đâu?Chính do Ðức Thế-tôn thuyết-giảng khi Ngài trú ở Sākeṭa trong rừng Ancana, cho du sĩ Kundali, du sĩ này có tên là Kundali vì có đeo vòng ở tai (kundali là người có đeo bông tai). Ðại ý như sau:

Du sĩ Kundali hỏi Ðức Thế-tôn:

- "Tôn giả Goṭama sống với lợi-ích gì?

- Này Kundali! Như-lai có lợi-ích là quả của minh và giải-thoát (vijjāvimuṭṭi phalānisamsam).

- Thưa tôn giả Goṭama! Minh và Giải-thoát được viên-mãn nhờ tu-tập pháp gì?.

- Này Kundali! Bảy giác-chi được tu-tập, được làm cho sung-mãn khiến Minh và Giải-thoát được viên-mãn.

- Thưa tôn giả Goṭama! Những pháp nào được tu-tập, được làm cho sung-mãn, đưa đến bảy giác-chi được sung-mãn.

- Này Kundali! Là bốn Niệm-xứ...

- Thưa tôn giả Goṭama! Bốn Niệm-xứ được viên mãn do nhờ tu-tập, được làm cho sung-mãn nhờ những pháp gì?

- Này Kundali! Là ba thiện-hạnh.

- Thưa tôn giả Gotama! Ba thiện hạnh được viên-mãn do nhờ tu-tập, được làm cho sung-mãn nhờ những pháp gì?

- Này Kundali! Là phòng-hộ môn-quyền".

Tiếp theo Ðức Thế-tôn giảng về cách phòng-hộ môn quyền, ba thiện-hạnh, bốn Niệm-xứ, bảy giác-chi một cách tóm tắc (Tương-ưng kinh). Theo Chú giải, du sĩ Kundali nghe xong thời giảng này chứng-đắc Dự-lưu quả, trở thành vị Thánh đệ tử.

Hành-giả cũng nên ghi nhận rằng: trong phần tu-tập bảy giác-chi có sự liên-hệ gắn liền với năm pháp chướng-ngại. Chúng ta sẽ tìm hiểu sự liên-hệ gắn bó giữa năm pháp chướng-ngại và bảy giác-chi ở phần sau.

Có một nghi vấn khác là: Bảy giác-chi này ai có thể làm hiển-lộ được? Và xây-dựng trên nền-tảng nào? "Bảy giác-chi được hiển-lộ qua trí của đấng Chánh-giác và được xây-dựng trên nền-tảng là giới-luật của bậc Thánh".

Ðức Thế-tôn khẳng định như thế, rằng:

- "Này các tỳ-khưu! Có bảy giác-chi chưa khởi lên, nếu được tu-tập, làm cho sung-mãn, có thể khởi lên. Nhưng không thể không có sự hiện-hữu của Như-lai, bậc A-la-hán Chánh-đẳng-giác. Thế nào là bảy giác-chi?...

- Này các tỳ-khưu! Có bảy giác-chi chưa khởi lên nếu được tu-tập, làm cho sung-mãn có thể khởi lên nhưng không thể không có giới-luật của bậc Thiện-thệ". (Tương-ưng kinh)

Giới-luật của bậc Thiện thệ hay giới-luật của chư Phật, của bậc Thánh là gì? Giới-luật ấy được gói gọn trong lời giáo-giới giải-thoát (ovādāpāṭīmokka) tóm tắt là:

"Sabbapāpassa akaranaṃ
Kusalassa upasampadā
Saciṭṭapariyodapanaṃ
Eṭaṃ buddhāna sāsanaṃ.

Không tất những điều ác
Làm tất cả điều lành
Giữ tâm cho trong sạch
Lời chư Phật dạy rành". (Pháp Cú 183)

Tóm lại, người có đức-tin nơi Tam-bảo, sẽ có sự suy-tư sâu xa và chân-chánh. Thoát ra khỏi vùng si ám, mê-muội như con chim thoát ra bụng mẹ qua hình-thức cái trứng.

Người ấy có sự thu thúc môn quyền (là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), như cái trứng được gìn-giữ không cho bị hư hoại, bể vụn trước khi con chim thành hình. Con chim hình thành ví như giới được hình thành qua sự gìn-giữ ba thiện-hạnh là: Thân hành-thiện, ngữ hành-thiện và ý hành-thiện.

Khi trì-giới tốt đẹp, hành-giả phát-triển sự tu-tập cao hơn bằng pháp niệm ví như con chim thoát ra khỏi vỏ trứng bằng cái mỏ nhọn của chính nó.

An-trú trong tổ ví như an-trú trong bốn Niệm-xứ, con chim được nuôi dưỡng tốt sẽ lớn mạnh. Cũng vậy, hành-giả an-trú trong bốn Niệm-xứ tu-tập bảy giác-chi bằng vật-thực là tác-ý đúng, khi bảy giác-chi sung-mãn, hành-giả thoát ra khỏi khổ-não luân-hồi ví như con chim lìa bỏ tổ, tung cánh tự-do trong không gian vô tận, tùy theo ý thích.

Bảy giác-chi là:

Niệm giác-chi (saṭi sambojjhaṅga).
Trạch-pháp-giác-chi (dhammavicaya sambojjhaṅga).
Tấn giác-chi (vīriya sambojjhaṅga).
Hỷ giác-chi (pīṭi sambojjhaṅga).
Tịnh giác-chi (passaddhi sambojjhaṅga).
Ðịnh giác-chi (samādhi sambojjhaṅga).
Xả giác-chi (upekkhā sambojjhaṅga).

Hành-giả muốn tu-tập bảy giác-chi, cần phải biết được nhân sanh của nó.

Nhân sanh-khởi của giác-chi hoặc làm cho giác-chi tăng-trưởng lớn mạnh có điểm chung là: tác-ý đúng phương-pháp . Và A-la-hán đạo là nhân làm cho giác-chi sung-mãn.

Riêng mỗi giác-chi đều có nhân sanh, nhân làm cho sung-mãn khác nhau, tùy theo đặc-tính cùng công-năng của mỗi giác-chi.

Tác ý: Manasikāra = Manasi + kāra. Theo nghĩa từng chữ là: "việc làm trong tâm".

Phận-sự chánh của tác-ý là hướng tâm cùng các sở-hữu đồng sanh về một đối-tượng, nó giống như bánh lái của chiếc tàu, tâm không có manasikāra như tàu không có bánh lái. Nếu như nó hướng dẫn tâm hướng về điều thiện gọi là yoniso manasikāra: tác-ý đúng, tác-ý chân-chánh. Nếu nó hướng dẫn tâm về điều xấu, ác, ô-nhiễm, gọi là tác-ý không đúng, tác-ý sai lệch (ayoniso manasikāra). Chính tác-ý không đúng là nhân cơ-bản, là vật-thực cần thiết cho năm pháp chướng-ngại sanh lên và tăng-trưởng.

Vì thế, trong Tương-ưng kinh, Ðức Thế-tôn có dạy rằng:

"Này các tỳ-khưu! Do phi như-lý tác-ý (ayoniso manasikāra) tham-dục chưa sanh được sanh lên, đã sanh-khởi đi đến tăng-trưởng, quảng đại. sân ... hôn-trầm, thụy miên ... trạo-hối ... nghi-hoặc chưa sanh được sanh lên, đã sanh-khởi đi đến tăng-trưởng, quảng đại.

Và niệm giác-chi chưa sanh không sanh, niệm giác-chi đã sanh bị đoạn-diệt, trạch-pháp giác-chi... tấn giác-chi... hỷ giác-chi... tịnh giác-chi... định giác-chi... xả giác-chi chưa sanh không sanh, xả giác-chi đã sanh bị đoạn-diệt.

Và này chư tỳ-khưu! Do như-lý tác-ý (yoniso manasikāra) dục-tham chưa sanh không sanh-khởi, dục-tham đang sanh bị đoạn-diệt, sân... hôn-trầm, thụy miên... trạo-hối... nghi-hoặc chưa sanh không sanh-khởi, nghi-hoặc đang sanh bị đoạn-diệt.

Này chư tỳ-khưu! Do như-lý tác-ý, niệm giác-chi chưa sanh được sanh-khởi, niệm giác-chi đã sanh-khởi nhờ tu-tập đi đến viên-mãn..."

Ðoạn kinh trên cho chúng ta thấy sự đối chiếu của hai loại tác-ý, cùng kết quả sanh lên từ chúng.

Tác-ý đúng đưa đến sanh-khởi và làm tăng-trưởng bảy giác-chi đồng thời hủy diệt năm pháp chướng-ngại. Tác-ý không đúng dẫn đến năm pháp chướng-ngại sanh-khởi và tăng-trưởng đồng thời hủy diệt bảy giác-chi. Các vị Luận-sư tạng Thắng-pháp nói rằng:

Ở khía cạnh khác, manasikāra có nghĩa là "sự chú ý" , nó ví như người đánh xe đang điều khiển cổ xe song mã hay cổ xe tứ mã, người đánh xe chú đến những con ngựa phi sãi, điều khiển chúng chạy song song, giúp cho cổ xe luôn vững vàng.

Trên phương diện tu-tập, tác ý và niệm gần như gắn liền nhau, tức là " chú ý ghi nhận ". Giống như người thợ cưa, luôn luôn chú ý đến lưỡi cưa, khi đang cưa khúc gỗ qua lằn mực chuẩn định, khi lưỡi cưa sắp đi lệch hay đã lệch lằn mực, y điều chỉnh lưỡi cưa trở lại lằn mực ngay. Nếu y không có sự chú ý (tức là tác-ý không đúng) lưỡi cưa sẽ đi sai lầm, khiến khúc gỗ kia trở thành vô dụng, y mất đi lợi-ích.

Nhưng tác-ý như thế nào gọi là tác ý đúng? Tức là, hướng tâm như thế nào là hướng tâm đúng? Là hướng tâm đến thiện-pháp , hướng tâm đến xa lánh ác pháp, hướng tâm đến không đắm-nhiễm (virāga) trong các trần-cảnh, hướng tâm đến từ bỏ dục-lạc, hướng tâm đến trừ diệt nhân sanh khổ (là ái-dục).

Theo sớ giải tạng Abhidhamma, các Ngài Luận-sư giải về sở-hữu tác-ý (manasikāra ceṭasika) như sau:

Āramaṇaṃ manasi paṭipādāyaṭī’ṭi = Āramaṇapādako: làm thành cảnh cho tâm, gọi là tác-ý thành cảnh.

Vậy thì tác-ý đúng về cảnh ra sao? Tức là, tâm phải lấy chi làm đối-tượng? Tâm lấy pháp làm đối-tượng (làm cảnh).

Ở đây, chính pháp thiện làm cảnh cho tâm, tâm hướng về pháp thiện, lấy pháp thiện làm đối-tượng, tâm sẽ trở nên tốt đẹp. Ðức Phật có dạy rằng:

"Này chư tỳ-khưu! trong khi vị Thánh đệ tử lấy pháp làm đối-tượng (aṭṭhiṃ kaṭvā), tập trung tất cả tâm ý (sabbaceṭaso sammannāhariṭvā), lắng nghe pháp, trong khi ấy năm pháp chướng-ngại không có trong vị ấy và bảy giác-chi trong khi ấy nhờ tu-tập, đi đến viên-mãn". (Tương-ưng kinh)

Trong lãnh-vực tu-tập để dẫn đến giác-ngộ, xuất khỏi luân-hồi. Giai-đoạn đầu của sự tu-tập, pháp chướng-ngại vẫn xuất hiện, vì thế, giữa hai pháp: chướng-ngại và giác-chi có sự đối nghịch nhau. Nên Ðức Thế-tôn thuyết-giảng về pháp giác-chi, Ngài đề cập đến năm pháp chướng-ngại.

Khi nói về năm pháp chướng-ngại, đức Phật dạy rằng:

"Này chư tỳ-khưu! năm pháp chướng-ngại tác thành si ám, tác thành mù lòa (vô nhãn), tác thành vô trí, đưa đến tổn hại (vighāṭapakkhiṭā) không đưa đến Níp-bàn. Thế nào là năm pháp chướng-ngại...

Này chư tỳ-khưu! bảy giác-chi tác thành mắt, tác thành trí, tăng-trưởng trí, đưa đến Níp-bàn, thế nào là bảy giác-chi?...". (Tương-ưng kinh)

Trong năm pháp chướng-ngại của pháp giác-chi, tham-dục là pháp quan trọng nhất, nó ngăn che sự xuất ra khỏi cõi dục, đồng thời hỗ-trợ đắc lực cho oán hận. Tham-dục quyến-rũ tâm đắm-nhiễm vào sắc đẹp, tiếng du dương, mùi thơm, vị ngon, thân đụng chạm khoái-lạc, gọi chung là tịnh-tướng của cảnh trần, cùng với pháp đáng yêu, đáng thích, đáng hài lòng của tâm.

Nhưng khi tâm không đạt được điều hưởng-thụ, nó trở nên bực dọc, khó chịu ... Vì thế, đức Phật có dạy: "Vật-thực làm cho tham-dục tăng-trưởng là tịnh-tướng, vật-thực làm cho oán hận lớn mạnh là chướng-ngại tướng (paṭighanimiṭṭa)". (Tương-ưng kinh)

Hành-giả khi tu-tập bảy giác-chi, cần phải có tác ý đúng trong sự tránh xa năm trần-cảnh quyến-rũ. Nếu bắt buộc phải tiếp xúc với năm trần-cảnh ấy thì cần phải tỉnh táo để không rơi vào đắm-nhiễm.

Thật ra, tịnh-tướng chẳng phải là nguy hại, sự nguy hại là do tâm đắm-nhiễm dính mắc vào nó. Tịnh-tướng là kết quả của thiện-nghiệp đã được tích lũy, là kết quả của việc thiện đã làm, tâm đắm-nhiễm dính mắc vào đó, tâm mới bị giam hãm, bị trói-buộc và nó trở thành một chướng-ngại, khiến tâm không thể thoát ra thế giới của dục-lạc. Ví như con nhện bị giam hãm, nằm trong mạng lưới của chính nó tạo ra.

Qua sự hành thiện, sự tu-tập được tích lũy, hành-giả càng lúc càng nhận được kết quả kỳ diệu của sự tu-tập, một trong những kết quả ấy là năm trần-cảnh tốt đẹp phát-sanh. Nếu không tỉnh táo, hành-giả sẽ không thể xa lánh, không thể tránh khỏi dính mắc vào nó, cuối cùng rơi vào nắm giữ (upādāna) lấy nó. Ðồng nghĩa là bị nó nắm giữ, điều khiển tâm.

Sự xa lánh trần-cảnh là bước đầu của sự tu-tập, hành-giả nên suy nghĩ trong tâm rằng: "Ta nên lánh xa những gì có thể đưa ta đến nguy hại, suy vong. Năm cảnh trần là một trong những điều ấy, chúng rất nguy-hiểm, mang đến tổn hại cho những ai thân-cận với chúng. Cho dù hiện giờ ta không rơi vào quyền lực của chúng, nhưng gần gũi, thân-cận với chúng, ta cũng bị ảnh hưởng không tốt. Ví như người không uống rượu, nhưng ngồi chung với những kẻ uống rượu, y cũng bị gọi chung là "bợm nhậu", hay tuy là kẻ vô tội nhưng đi chung đường với những tên trộm, cướp khi quan quân bắt giữ bọn trộm, cướp cũng bắt giữ luôn kẻ ấy. Vậy tốt hơn hết ta nên xa lánh nó".

Khi tiếp xúc với năm trần-cảnh khả-ái, khả-hỷ, khả ý, khả-lạc, cần phải tỉnh táo trước chúng, để không bị đắm-nhiễm, bằng cách: " có sự ghi nhớ mình ".

Chính Ngài Ānanda bạch hỏi Ðức Thế-tôn rằng:

- Bạch Thế-tôn! chúng con phải cư xử với nữ nhân như thế nào?

- Này Ānanda! Chớ có nhìn ngắm.

- Bạch Thế-tôn! Nếu phải nhìn ngắm, thì phải làm sao?

- Này Ānanda! Chớ nói chuyện.

- Bạch Thế-tôn! Nếu phải nói chuyện thì phải xử trí như thế nào?

- Này Ānanda! Phải ghi nhớ mình (saṭi upaṭṭhāpeṭabhā’ṭi = an-trú Chánh-niệm). (Kinh Ðại bát-Níp-bàn)

Một số người ít hiểu biết cứ nghĩ rằng: "Những trần-cảnh chỉ là những gì thuộc vật-chất vô tri", cần phải hiểu rằng: "Trần-cảnh bao gồm vật-chất vô tri lẫn chúng-sanh, khi nó làm đối-tượng (cảnh) cho tâm".

Có người quí trọng con vật nuôi trong nhà hơn cả con người, chỉ vì con vật ấy xinh đẹp, khi bị mất con vật ấy, y "tiếc ngẩn, tiếc ngơ", đôi khi phát-sanh bệnh. Ðó là sự đắm-nhiễm trong trần-cảnh, ở đây đối-tượng là những chúng-sanh khả-ái, khả ý (đáng yêu thích, đáng hài lòng).

Câu hỏi trên của Ngài Ānanda, chúng ta cần phải mở rộng vấn đề qua sự suy-ngẫm. Ngài Ānanda, ở cương vị là bậc sa-môn tỳ-khưu, Ngài có bốn pháp hoan-hỷ là: bất kỳ hàng tứ chúng nào, tỳ-khưu, tỳ-khưu ni, cận sự nam hay cận sự nữ, được yết kiến Ngài Ānanda sẽ hoan-hỷ, được nghe Ngài Ānanda thuyết-pháp sẽ hoan-hỷ. Ngài Ānanda im lặng thì thất vọng.

Vì Ngài có pháp mang đến sự hoan-hỷ cho hàng tứ chúng, lại là thị giả của đức Thế-tôn, nên Ngài thường bị nữ nhân quấy rầy, điển hình là tỳ-khưu ni Koliyā. Và đây cũng là nhân là duyên có câu hỏi ấy.

Câu hỏi được mở rộng trong phạm vi, đưa đến nhận-thức rằng: nữ nhân là đối-tượng đắm-nhiễm của nam nhân và ngược lại. Trong Tăng-chi kinh, nơi phẩm sắc (rūpavagga) Ðức Thế-tôn dạy (tóm lược) như sau:

- "Này chư tỳ-khưu! Như-lai không thấy một sắc nào xâm chiếm ngự-trị tâm người nam như sắc người nữ.

Như-lai không thấy một tiếng nào... một hương... một vị... một xúc nào xâm chiếm, ngự-trị tâm người nam như xúc người nữ.

Này chư tỳ-khưu! Như-lai không thấy một sắc nào xâm chiếm ngự-trị tâm người nữ như sắc người nam, một tiếng... một hương ... một vị... một xúc xâm chiếm, ngự-trị tâm người nữ như xúc người nam".

Hành-giả cần nhận-định rõ ý-nghĩa trên và cần hiểu rằng: sự tiếp xúc với năm trần-cảnh đáng thích ý, đáng hài lòng trong thời hiện-tại là điều khó tránh khỏi.

Thời hiện-tại là thời vật-chất tăng thịnh, những phương tiện vật-chất phục vụ cho con người được phát-triển sung-mãn, càng lúc càng tăng thêm phần quyến-rũ.

Những vật-chất ấy có phải là tội-lỗi không? Không, nó không tội-lỗi cũng không thánh thiện, đơn giản nó chỉ là phương tiện của con người, thế thôi. Nhưng tác hại hay không là do tâm, cái tâm đắm-nhiễm, cái tâm không được điều-phục, cái tâm bị hướng dẫn không đúng mới là tác hại. Chính vì những phương tiện đáng hài lòng, đáng thích ý ấy mà biết bao người phạm vào tội-lỗi, phạm vào tội ác, để rồi nhận lãnh hậu quả đau-khổ như tù tội ... trong hiện-tại.

Dĩ nhiên, không thích-hợp khi nói rằng: "Người này ác, người này tội-lỗi, người này đáng khinh". Nói thích-hợp là nói rằng: "Người này hành động ác, hành động tội-lỗi, hành động đáng khinh".

Ðức Phật dạy rằng: "Thân-hành ác, ngữ nói ác, ý thiên về ác hay thân-hành thiện, ngữ nói thiện, ý thiên về thiện". Ngài không nói "Con người là ác, con người là thiện". Cũng vậy, không hợp lý khi nói rằng: "Tịnh tướng của năm trần-cảnh là tội lỗi" nói hợp lý là: "Tịnh tướng có thể dẫn dắt chúng-sanh rơi vào tội-lỗi", bản chất là khác, hành động là khác.

Nếu phân-tích sâu hơn, sẽ thấy rằng: "hành động dẫn dắt tâm" của tịnh-tướng chỉ là sự thụ-động, chính tâm dính mắc vào nó, chứ nó không dính mắc vào tâm. Nó chỉ có thể phô bày sự tốt đẹp, đáng ưa thích, đáng hài lòng mà thôi. Còn tâm bị dụ dỗ, bị quyến-rũ hay không là do "tác ý" của tâm. Mức độ tác hại nhẹ nhất của tâm đắm-nhiễm vào tịnh tướng là: "bị ngự-trị", nói rõ hơn là: tâm bị nô-lệ bỡi những tịnh-tướng ấy. Ðơn cử một ví dụ như sau:

Trước đây không có ánh sáng đèn điện, con người sống với ánh sáng của lửa, của đèn dầu, tâm không hề cảm thấy khó chịu. Giờ đây quá quen thuộc với ánh đèn điện, do một nguyên-nhân nào đó, bị mất điện, lập tức có sự hoãng loạn, bất ổn xảy ra ngay trong tâm và mức độ nhẹ nhất đối với cái tâm thiếu hay không có sự kiểm-soát là: khó chịu, bực bội. Ðiều này nói lên cái gì? Nói lên ý-nghĩa "tâm bị nô-lệ" ánh sáng đèn điện.

Ðó là một trong vô số ví dụ điển hình về ý-nghĩa tâm bị xâm chiếm, bị ngự-trị bởi năm tịnh-tướng quyến-rũ của năm trần-cảnh vật chất.

Hành-giả khi tiếp xúc với trần-cảnh phải điều-phục tâm, qua các cách như sau: (theo lời dạy của Ðức Thế-tôn đối với những câu hỏi của trưởng-lão Ānanda):

- Ðừng ngắm nhìn là đừng lưu-ý đến.
- Nếu phải ngắm nhìn (tức là bắt buộc phải tiếp cận, gần gũi) nên có sự ghi nhớ mình.

Ðó là phương thức điều-phục tâm trước những tịnh-tướng của năm trần-cảnh.

Ví dụ trên cũng chứng tỏ rằng: tâm bực bội, khó chịu là do chạm phải bất tịnh-tướng (paṭighanimiṭṭa), tức là tâm đang thụ-hưởng điều nó hài lòng, bị mất đi nó trở nên khó chịu, khó chịu được phát-triển trở thành giận dữ (byāpāda) đôi khi hiển-lộ ra thân hay lời nói như mắng nhiếc hoặc đập phá ...

Thế là, chúng ta có hai kết luận nhỏ bé:

- "Tâm không hiểu biết, thiếu hiểu biết trở thành nô-lệ cho tịnh-tướng của năm trần-cảnh".

- "Tham-dục là duyên khiến oán hận (sân-độc) sanh lên và phát-triển".

Hành-giả có sự ghi nhớ mình hay có chánh-niệm (saṭi upaṭṭhāpeṭabhā’ṭi) là người có sự điều-phục tâm. Ðức Thế-tôn dạy trong Aṅguṭṭara-nikāya rằng:

"Này chư tỳ-khưu! Tâm được điều-phục, được hộ trì, được phòng-hộ, được bảo vệ, đưa đến lợi-ích lớn".

Như đã nói, dục-tham là chướng-ngại mạnh nhất của giác-chi trong lãnh-vực giác-ngộ. Hành-giả phải có tác-ý đến bất tịnh-tướng trong tịnh-tướng để dục-tham chưa sanh không sanh, dục-tham đang sanh bị đoạn trừ.

Ðức Thế-tôn có dạy:

"Này chư tỳ-khưu! Tâm này là sáng chói, nhưng bị ô-nhiễm bởi cấu uế từ bên ngoài vào.

Này chư tỳ-khưu! Tâm này là sáng chói và tâm này được gọt sạch những cấu uế từ bên ngoài vào". (Tăng-chi kinh)

Nói chung, năm chướng-ngại là cấu uế của tâm, những cấu uế này từ bên ngoài đưa vào, cấu uế ấy được gọt sạch bằng tác-ý đúng.

1- Niệm giác-chi ( saṭi sambojjhaṅga ).

Niệm là yếu tố đầu tiên của sự giác-ngộ, đó là phương tiện hữu hiệu nhất trong sự điều-phục tâm, làm chủ tâm. Bất luận người nào có duyên lành, khi hành pháp niệm một cách đúng đắn là người tìm ra con đường đưa đến giải-thoát.

Chi pháp bản thể thực-tính của niệm là sở-hữu niệm (saṭi ceṭasika), tùy theo công-năng của nó ở lãnh-vực nào, nó có tên gọi theo lãnh-vực ấy như:

- Khi an-trú niệm vào bốn nơi: thân, thọ, tâm, pháp nó có tên gọi là bốn Niệm-xứ.

- Trong lãnh-vực quản trị, kiểm-soát các pháp đồng sanh hướng về sự trú-vững, nó có tên gọi là Niệm-quyền.

- Trong lãnh-vực có sức mạnh, không rung động trong sự dể-duôi, khinh suất (panāda), nó có tên gọi là Niệm-lực.

- Trong lãnh-vực dẫn đến giác-ngộ, nó được gọi là Niệm giác-chi.

- Trong lãnh-vực đưa đến sự chứng-đắc Níp-bàn, nó được gọi là Chánh-niệm.

Niệm là một đức-tính vô cùng quan trọng, người thiếu niệm không thể thành-tựu việc gì đáng kể. Ngay trước giờ viên-tịch lời di huấn tối hậu của Ðức Thế-tôn là:

"Vayadhammā saṅkhāra appamādena sampadeṭha: Các pháp hữu-vi là vô-thường, hãy kiên-trì nỗ-lực chớ có khinh suất (dể-duôi)".

Và lời dạy cuối cùng của Ngài Sārīpuṭṭa vị thánh Thượng-thủ đệ nhất trí-tuệ của đức Phật cũng dạy, cùng ý-nghĩa ấy:

"Sampādeṭha appamādena esa me anusāsanā: Hãy kiên-trì chuyên niệm, đó là lời khuyên của ta".

Trong cả hai lời dạy ấy, đức Phật và đức Sārīpuṭṭa đều dùng một từ rất quan trọng là Appamādena , nghĩa là ghi nhận liên tục, ghi nhận không ngừng nghỉ, ghi nhận không gián đoạn.

Xuyên qua Tam-tạng kinh-điển Pāli, danh từ appamāda được dùng theo nghĩa saṭi, nhưng appamāda mang tính đậm đặc hơn saṭi, saṭi chỉ là sự ghi nhận bình thường, còn appamāda hàm ý "theo dõi sự ghi nhận". Nó giống như người quản đốc theo dõi sự làm việc của người thợ, nếu người quản đốc nhìn người thợ đang làm việc, y ghi nhận rằng: người thợ đang làm việc, đó là Sati, còn y biết rõ sự tiến triển công việc qua sự làm việc của người thợ ví như Appamāda.

Luôn luôn có sự ghi nhớ biết mình là trạng-thái của thức-tỉnh (sampajaññā), hành-giả không thể giữ được sự ghi nhận, nếu không có tỉnh-thức để biết rõ, biết đầy đủ hành động của thân, lời nói cùng ý nghĩ trong từng giây, từng phút.

Chỉ khi nào có được tỉnh-thức, hành-giả mới biết rõ những diễn tiến của thân, ngữ, ý. Khi ấy mới phân biệt được " đây là thiện, đây là bất-thiện ", đây là đúng, đây là sai. Mà có được sự tỉnh-thức ấy, phải luôn luôn có sự biết mình, tức là không dể-duôi (appamāda).

Ðức Phật dạy:

"Này chư tỳ-khưu! Như-lai không thấy một pháp nào khác có thể đưa đến lợi-ích lớn, đó là không dể-duôi (appamāda). Không dể-duôi, này chư tỳ-khưu, đưa đến lợi-ích lớn". ( Aṅguṭṭara-nikāya)

Trong Tương-ưng kinh, đức Phật cũng dạy:

"Appamāde mahaṭo aṭṭhāya sanvaṭṭaṭi: Không dể-duôi dẫn đến lợi-ích lớn".

Ðây là sự phát-triển tâm linh ở mức độ cao, trạng-thái tâm thường xuyên tỉnh-thức (sampajaññā).

Chữ sampajaññā là sự hiểu biết xuyên qua yên-lặng, thật yên-lặng, một sự yên-lặng thật trong sạch của tâm, thường được dịch là tỉnh-giác hay tỉnh-thức .

Mặt nước giao động sóng sánh, khi để yên, nó trở nên yên-lặng, nhưng khi có ngọn gió nó lại giao động, bao giờ nước tâm vẫn yên-lặng dù có bao nhiêu đợt gió thổi đến, nó vẫn y nhiên không giao động, đó là ý-nghĩa của tỉnh .

Ví như hồ nước trong sạch, khi yên-lặng, người có mắt nhìn thấy rõ ràng một vật hiện-hữu dưới đáy hồ, đó là ý-nghĩa của thức -giác . Nghĩa là sự biết rõ xuyên qua vùng tâm trong sạch đang tĩnh-lặng tuyệt đối trước những ngọn gió trần-cảnh: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

"Ví như, này các tỳ-khưu! một hồ nước trong suốt, không bị khuấy đục. Người có mắt đứng trên bờ có thể thấy ốc, sò, hòn sỏi ... vì cớ sao? vì nước không bị khuấy đục.

Người ấy biết được lợi-ích của mình, biết được lợi-ích của người, biết được lợi-ích cả hai. Sẽ chứng ngộ được pháp thượng-nhân, tri-kiến thù thắng". ( Aṅguṭṭara-nikāya).

Tâm bị khuấy đục (āvilaṭṭā) là ám chỉ tâm bị che lấp, bao phủ bởi năm chướng-ngại, nên trí-tuệ không thể thấy sự-thật về tướng hữu-vi pháp, không thấy rõ vô-thường tướng, khổ tướng và vô-ngã tướng.

Tham-dục ví như nước có chứa nhiều màu sắc: xanh, vàng, đỏ... khiến người ta không thể nhìn xuyên qua để có thể thấy những gì ở bên dưới. Sân-độc ví như nước luôn luôn sôi sục, làm méo mó, lệch lạc hình ảnh vật ở dưới, khiến không thể nhận rõ ràng. Trạo-hối ví như nước dợn sóng bởi các ngọn gió. Hôn-thụy ví như nước dấy bùn. Hoài-nghi ví như nước có rong xanh trôi phập phều, lúc phô bày vật dưới nước, rồi che lấp ngay, rồi phô bày ra rồi che lấp lại.

Chúng là chướng-ngại của giác-ngộ vì ngăn che ba tướng vô-thường, khổ, vô-ngã, trong đó tham-dục và sân-độc có sức mạnh hơn cả. Chúng làm duyên cho nhau sanh-khởi.

Ðức Phật dạy rằng:

1- Pemā pemaṃ jāyaṭi: Luyến ái sanh từ luyến ái.
2- Pemā doso jāyaṭi: Sân sanh từ luyến ái.

3- Doso pemaṃ jāyaṭi: Luyến ái sanh từ sân.
4- Dosā doso jāyaṭi: Sân sanh từ sân (Tăng-chi kinh)

Con đường đưa chúng-sanh thoát ra mọi đau-khổ luân-hồi, con đường ấy chỉ có một, đức Phật gọi là con đường duy nhất (ekayāno maggo). Muốn thoát ra khỏi luân-hồi khổ, chúng-sanh phải đi trên con đường đó, khởi đầu là bốn niệm-xứ, đoạn cuối con đường là bát-chánh-đạo, tận cùng của bát-chánh-đạo là Níp-bàn cứu cánh giải-thoát khổ. Không thể giải-thoát nếu không có sự chú niệm liên tục (appamādena).

Appamādaraṭo bhikkhu
Pamāde bhayadassi vā
Abhabbo parihānāya
Nibbānass’eva sanṭike.

"Vị tỳ-khưu thích-thú trong chuyên cần chú niệm, sợ-hãi trước sự dể-duôi.
Vị ấy không còn rơi xuống, vị ấy đối diện với Níp-bàn". (Pháp Cú 32)

Ý kệ-ngôn này là: "Người luôn luôn gần gũi với sự ghi nhớ mình bằng tâm tỉnh-giác (saṭimā), với nỗ-lực tinh-cần, vượt lên trên trạng-thái buông-lung (pamaṭṭo hay pamāda), người ấy tiến gần đến Níp-bàn, giải-thoát khổ".

Vì sao trong bảy giác-chi, Ðức Thế-tôn thuyết-giảng Niệm giác-chi trước tiên? Vì rằng: khi có niệm, tâm không phóng túng, lừng lẫy cũng không quá thối giảm lui sụt.

Trong Sammohavinodanī có giải rằng: "Ðức Thế-tôn thuyết-giảng Niệm giác-chi đầu tiên, vì đó là pháp tiếp trợ cho mọi giác-chi khác".

Có Phật-ngôn như vầy:

"Tesu saṭiñca khvāhaṃ bhikkhave sabbaṭhi-kaṃ vadāmi.
Này chư tỳ-khưu! Niệm giác-chi là lợi-đắc cho tất cả giác-chi
". (Samohavinodanī)

Nhân sanh Niệm giác-chi: Ngoại-trừ nhân sanh căn-bản là tác ý đúng cho mọi giác-chi thì nhân sanh và làm tăng-trưởng Niệm giác-chi có bốn:

1) Giác-niệm (saṭi pajānāṭi): biết mình trong bảy giai-đoạn tiến hành của tâm (xem phần tiểu oai-nghi, tỉnh-giác).
2) Không thân-cận với người hay quên (thất-niệm).
3) Thân-cận với người có niệm vững mạnh, là người có trí nhớ chính xác.
4) Chú tâm vào sự ghi nhận và ghi nhớ mọi diễn tiến trong mỗi oai ghi.

2- Trạch-pháp giác-chi (Dhammavicaya sambojjhaṅga)

Là nhiệt thành suy xét pháp, hay suy ngẫm cao độ về giáo-pháp của đức Phật. Chữ vicaya nghĩa là tìm kiếm, sưu tầm.

Trước tiên, hành-giả cần phải có pháp để suy xét, nhưng đó là pháp nào? Là già-bệnh-chết, ba hiện tượng này đã thúc giục Bồ-tát Siddhaṭṭha lên đường, sống đời đạo hạnh giữa chốn rừng sâu và cuối cùng thành-đạt Vô-thượng Chánh-đẳng-giác dưới cội Bồ-đề. Già-bệnh-chết nằm trong thân năm uẩn.

Trong quá trình tu-tập, khi quán-xét về ba hiện tượng này, hành-giả sẽ gặp những suy-tư, những gút mắc, những nghi-vấn. Hành-giả tìm trong giáo-pháp của đức Phật những pháp môn nhằm mục-đích giải quyết những băn khoăn, nghi-hoặc ấy. Trong Phật-giáo không có sự cưỡng bức hay áp chế đức-tin, đức Phật không đòi hỏi hàng tứ chúng có một đức-tin mù quáng, cũng không tán thán loại đức tin này. Trái lại, Ngài tán thán loại đức-tin có suy-nghiệm kỹ, có thực chứng rõ ràng.

Trong Trường-bộ kinh bài kinh Tự-hoan-hỷ (sampasādaniya suṭṭa). Khi Ngài Sārīpuṭṭa bày tỏ lòng tin của mình đối với đức Phật, đức Phật hỏi vì sao có lòng tin đối với bậc Ðạo-sư như vậy? Ngài Sārīpuṭṭa trình-bày: Truyền-thống chánh-pháp do Ðức Thế-tôn thuyết-giảng, được Ngài nhận biết: như pháp đen pháp trắng đều được đối chiếu. Và pháp thiện (pháp trắng) được Ngài thâm hiểu trọn vẹn

Rồi Ngài trình-bày về những pháp đưa đến giác-ngộ như: bốn niệm-xứ, bốn chánh-cần, bốn như-ý-túc, năm quyền, năm lực, bảy giác-chi, thánh-đạo tám chi được Ngài thâm hiểu trọn vẹn, pháp sau thâm thúy hơn pháp trước. Ðó là nhân phát-sinh lòng tin của Ngài đối với đấng Ðạo-sư (idh’ekaccaṃ dhammaṃ dhammesu niṭṭhaṃ ayamaṃ saṭṭhari pasīṭhiṃ...).

Chữ thâm hiểu trọn vẹn pháp (dhammaṃ dham-mesu) ý nói chứng-đạt, thành-tựu pháp ấy. Ngài nhận-thức rằng: những pháp ấy nằm trong sự hiểu biết của Ðức Thế-tôn, một sự hiểu biết trọn vẹn, được Ðức Thế-tôn thuyết-giảng trọn vẹn, được phân-tích đến độ không còn gì để phân-tích.

Câu nói "không còn gì để hiểu biết hơn nữa" (n’aṭṭhi yad abhijānaṃ), hàm ý rằng: Ngài Sārīpuṭṭa cũng hiểu rõ như thế, đúng như sự thuyết-giảng của Ðức Thế-tôn qua sự chứng nghiệm của Ngài.

Tiếp theo, Ngài Sārīpuṭṭa trình-bày những pháp thượng-nhân được Ðức Thế-tôn chứng đạt dễ-dàng, bằng chứng là Ðức Thế-tôn thuyết-giảng rõ ràng minh bạch. Những pháp thượng-nhân này, nếu một ngoại đạo sư nào đó chỉ cần thành tựu một pháp, đã giương cờ, giống trống lên rồi. Trái lại, Ðức Thế-tôn không tự mình tỏ lộ.

Ðây là một pháp đáng kính phục, do vậy lòng tin của Ðức Sārīpuṭṭa vào bậc Ðạo-sư vô cùng mãnh-liệt.

Trong quá trình suy-ngẫm pháp, hành-giả cần phải phân-tích đến tận cùng từng chi tiết với sự nhiệt thành, để thấu đạt trọn vẹn thực-chất của pháp hữu-vi là sắc và danh. Từ đó hành-giả nhận-thức được sự vật theo đúng chân-tướng: pháp hữu-vi phải trải qua ba giai-đoạn: sanh (upāda), trụ (ṭhiṭi) và diệt (bhaṅga). Ba giai-đoạn này diễn ra cực kỳ nhanh chóng đến nỗi khó có thể hình dung được, chúng liên tục biến đổi nhanh đến nỗi "không thể tắm hai lần trong một dòng sông". Tắm lần thứ nhất, nước dòng sông đã trôi đi, lần thứ hai là những giọt nước mới, những giọt nước cũ đã trôi xuôi lâu rồi.

Có thể hiểu đơn giản: trụ -diệt ám chỉ cho già-bệnh-chết và sanh là nguyên-nhân dẫn đến già-bệnh-chết.

Có thể khảo sát ngay trên chính thân năm uẩn của hành-giả, để thấy rõ từng uẩn một trong năm uẩn sanh lên từ nhân nào? Diệt đi bởi nhân nào? Sự khảo sát nông cạn, chăm chú hời hợt không chính đáng, đó là tác-ý không đúng, nó sẽ làm tâm nhơ bẩn nên không thể khảo sát được bản chất sự vật qua ba giai-đoạn sanh-trụ-diệt.

Ví như người muốn bón phân vào ruộng lúa của mình, nhưng y không biết loại phân nào là cần thiết cho lúa, giá trị loại phân ấy ra sao, y cứ cho bừa vào ruộng, bất kể đó là loại phân gì, kết quả cánh đồng của y có thể chỉ còn là cỏ dại. Nhưng nếu y biết loại phân cần thiết cho loại lúa đang gieo trồng, y tìm thấy được loại phân ấy, nhưng hời hợt chỉ chú ý nhãn hiệu, không để tâm xem xét kỹ đúng loại cần dùng hay là loại phân giả mạo. Nếu là loại giả mạo, y mang về ném vào ruộng, thì kết quả cũng chỉ là cánh đồng trơ cỏ dại. Chỉ khi nào y xem xét kỹ lưỡng, biết rõ thực chất loại phân cần dùng, bây giờ y mới hy-vọng thu hoạch tốt.

Cũng vậy, khảo sát pháp là xem xét tận tường về nhân, về duyên của pháp ấy.

Trong thực tế, mỗi sự vật được hình thành đều có nhân có duyên (heṭu paccaya) và tạo thành kết quả (phala). Nhân là điều-kiện trực tiếp phát-sanh lên, còn duyên là điều-kiện ủng hộ cho sự phát-sanh. Nhân ví như mầm trong hạt giống, còn duyên ví như nước, đất ... Nói cách khác duyên là điều-kiện gián tiếp để sanh-khởi lên.

Nhưng trong nhiều trường-hợp duyên cũng được hiểu như là điều-kiện trực tiếp (nhân), vì không còn điều-kiện nào khác ngoài điều-kiện này, cho dù điều-kiện này thực chất chỉ là hỗ-trợ.

Như nói Ðạo-đế (magga sacca) là nhân, Diệt-đế (nirodha sacca) là quả. Ðạo-đế là bát chánh-đạo còn Diệt-đế là Níp-bàn. Níp-bàn là vô nhân vô quả (neva vipāka na vipāka-dhamma dhammā), nghĩa là pháp không phải là quả của nhân nào, đồng thời cũng chẳng có nhân nào trong đó để cho quả sau này. Như thế, câu nói Ðạo-đế là nhân, Diệt-đế là quả, xét ra không hợp lý. Nhưng ngoài bát chánh-đạo ra không còn con đường nào để chứng đạt Níp-bàn cả, mặc dù bát-chi đạo chỉ là điều-kiện hỗ-trợ cho sự chứng đạt Níp-bàn, nhưng lại là điều-kiện duy nhất.

Ðức Phật dạy rằng:

- Này Subhadda! Trong pháp-luật nào không có bát chánh-đạo không có đệ nhất sa-môn (ám chỉ bậc Dự-lưu), đệ nhị sa-môn (ám chỉ bậc Nhất-lai), đệ tam sa-môn (ám chỉ bậc Bất-lai), đệ tứ sa-môn (ám chỉ bậc A-la-hán).

Này Subhadda! Trong pháp-luật nào có bát chánh-đạo thời có đệ nhất sa-môn, đệ nhị sa-môn, đệ tam sa-môn, đệ tứ sa-môn.

Này Subhadda! Chính trong pháp-luật này có Bát Chánh đạo. (Mahāparinibbāna suṭṭa)

Bát chánh-đạo ví như con đường dẫn đến thành phố, nhưng lại là con đường duy nhất, dĩ nhiên thành phố không phải được sanh ra từ con đường, nhưng nếu không có con đường này thì không thể đến thành phố.

Do đó, ở khía cạnh này có thể (chỉ có thể thôi) nói "Ðạo-đế là nhân, Diệt-đế là quả".

Chính vì suy xét ở cao độ nên những chi tiết dù là nhỏ hành-giả cũng không nên bỏ qua. Lẽ thường, chúng-sanh do hời hợt, dể-duôi nên cho rằng: "những chi tiết nhỏ nhặt, là không đáng kể, chẳng đáng quan tâm", điều này ảnh hưởng đến trí suy xét pháp.

Có vị tỳ-khưu suy ngẫm về học-giới được Ðấng Ðạo-sư chế-định cho chư tỳ-khưu, trình-bày với trưởng-lão Mahā kassapa rằng:

"Bạch Ngài! Học-giới được Ðức Thế-tôn chế-định, quả thật chi-li.

- Này Hiền-giả! Chính sự chi-li ấy là Nhất-thiết-trí (sappaññuṭaññāṇa) của Ðức Thế-tôn".

Trong bộ chú giải về Luật, Samanṭapasādikā có ghi nhận rằng:

"Các vị Thánh Hữu-học xem những lỗi nhỏ nhặt nhất như làm quấy (dukkaṭāya), là một trọng tội (ṭhullaccayāya).

Trong Pháp-cú kinh đức Phật cũng dạy rằng:

Māvamaññeṭha pāpassa
Na maṃ ṭaṃ āgamissaṭi
Udabindunipāṭena
Udakumbho’ pi pūrāṭi
Pūraṭi bālo pāpassa
Thokaṭhokam’ pi ācinaṃ.

"Không nên khinh thường ác nhỏ, cho rằng "nó không đến gần ta".
Từng giọt nhỏ rơi xuống, lâu ngày làm đầy bình.
Dường thế ấy, người cuồng dại góp nhặt mỗi ngày chút ít điều ác, (ngày kia) sẽ bị cái ác thấm nhuần trọn vẹn". (Pháp Cú 121)

Māvamaññeṭha puññassa
Na maṃ ṭaṃ āgamissaṭi
Udabindunipāṭena
Udakumbho’ pi pūraṭi
Pūraṭi dhīro puññassa
Thokaṭhokam’ pi ācinaṃ.

"Không nên xem thường phước nhỏ, cho rằng "nó không đến gần ta".
Từng giọt nhỏ rơi xuống, lâu ngày làm đầy bình.
Dường thế ấy, người thiện-trí góp nhặt từng chút ít điều thiện, (ngày kia) sẽ trọn vẹn thấm nhuần". (Pháp Cú 122)

Chữ āganissaṭi, "không đến gần", nghĩa là không mang tai hại hay hạnh-phúc đến được, ý nói không có kết quả.

Ðức Phật cũng dạy bốn điều không nên khinh thường là: "- Ðóm lửa nhỏ, con rắn nhỏ, vị Hoàng-tử trẻ và vị sa-môn trẻ."

Nhưng suy xét từng chi tiết nhỏ nhặt trên phương diện nào? Trên phương diện dẫn đến tác hại hay lợi-ích: tức là suy xét đến hậu quả (phala) của nó. Chính sự suy xét như thế, làm phát-sanh trí nhạy bén trong nhân phát-sanh, nhân đoạn-diệt của pháp (nào đó).

Như vậy, giáo-lý có tính phân-tích (vibhajjavāda) mà đức Phật hướng dẫn cho chư đệ tử, giáo-lý ấy không xây-dựng trên nền-tảng đức-tin mù quáng, giáo-lý này được xây-dựng trên nền-tảng suy-nghiệm và thực chứng. Ðó là giáo-lý hình thành qua trí-tuệ thực tiển.

Hành-giả thực tập điều này, gọi là tu-tập trạch-pháp giác-chi, nhưng phải dựa vào tác-ý đúng.

Tác-ý đúng, hướng vào đâu để làm nền cho sự tu-tập Trạch-pháp giác-chi? -Hướng vào năm uẩn.

Gia công chuyên cần quán-xét, suy-nghiệm để nhận ra sự sanh-diệt (udaya -vaya) của năm uẩn, cùng với sự hổ-tương liên kết của chúng qua duyên (paccaya), thấy được tác-dụng năng-lực của pháp hữu-vi (suddha saṅkhāra puñja), qua sự diễn tiến liên tục của danh-sắc.

Chỉ khi nào hành-giả nhận-thức đầy đủ bản chất vô-thường, khổ, vô-ngã, bấy giờ ảo tưởng về ta, của ta không còn, sự nắm giữ năm uẩn không có. Khi ấy, hành-giả sẽ chứng nghiệm được hạnh-phúc của sự buông bỏ.

Yaṭo yaṭo sammasaṭi
Khandhānaṃ udayabhayaṃ
Labhaṭi pīṭi pāmojjaṃ
Amaṭaṃ ṭaṃ vijānaṭaṃ.

"Mỗi khi suy niệm về sanh -diệt của các uẩn,
Người ấy đạt phỉ lạc,
đối với những ai thấu hiểu, đó là Bất-tử". (Pháp Cú 374)

Và:

Dhammapīṭi sukkam seṭi
Vippasannena ceṭasā
Ariyappavediṭe dhamme
Sadā ramaṭi paṇḍiṭo.

"Người thấm nhuần giáo-pháp,
sống trong hạnh-phúc với tâm an-tịnh.
Người thiện-trí luôn thoả thích trong giáo-pháp
mà bậc Thánh nhân đã tìm thấy". (Pháp Cú 79)

Sự thấu triệt, chứng ngộ ba đặc-tướng vô-thường, khổ, vô-ngã được xem là tuệ minh-sát.

Và sự chứng đạt này, ví như lưỡi dao bén, gột sạch tất cả những khuynh-hướng ngủ-ngầm trong tâm, đồng thời gột sạch những mầm móng tạo ra khổ luân-hồi.

Trạch-pháp giác-chi là pháp giúp hành-giả có cái nhìn rõ ràng, nhận-thức được những gì đang bị che lấp bên trong, không còn quan điểm mù mờ về các hiện tượng của danh -sắc. Và hành-giả sẽ vượt lên trên mọi lầm-lạc nhờ có tuệ minh-sát sắc bén.

Chỉ có tuệ minh-sát sâu sắc mới có thể mang lại quan kiến đúng đắn toàn hảo, không bị rơi vào lầm-lạc.

Nhân sanh-khởi của Trạch-pháp giác-chi có bảy điều là:

1- Học hỏi pháp thâm sâu.
2- Sạch sẽ trong vật-dụng.
3- Quân-bình năm quyền.
4- Không thân-cận người vô trí.
5- Thân-cận bậc trí.
6- Quán-xét đúng đắn pháp thâm sâu.
7- Chú tâm suy-nghiệp về Trạch-pháp ấy.

Giải:

Ðiều 1: Học hỏi về những pháp có ý-nghĩa thâm sâu như uẩn, xứ, giới (dhāṭu), quyền, lực, giác-chi, đạo, các chi-thiền Chỉ-tịnh, Minh-quán.

Ðiều 2: Sạch sẽ trong các vật-dụng cùng thân thể. Nếu những vật-dụng hay thân thể không sạch sẽ, dù trí có sanh lên cũng bị ô-nhiễm, ví như ánh sáng ngọn đèn sanh-khởi lên do dầu, tim đèn, cây đèn, nếu cả ba không sạch thì ánh sáng cũng không trong sáng. Trái lại, ánh sáng sẽ rực rỡ do ba vật đều sạch. Cũng vậy, nếu vật-dụng, thân thể sạch sẽ, trí sanh lên được tốt đẹp.

Ðiều 3: Năm quyền được quân-bình. Khi có một quyền già mạnh thì bốn quyền kia non kém, không thể làm phận-sự của mình được. Do vậy, khi hành-giả quán-xét thấy một quyền nào đó trong năm quyền già mạnh, hãy tìm xem do nhân nào khiến quyền ấy già mạnh, rồi làm giảm nhẹ quyền ấy.

Như khi thấy tín-quyền già mạnh, biết được nhân khiến tín-quyền sung-mãn, làm giảm sức mạnh của tín-quyền bằng cách:

- Không Tác-ý đến nhân làm tăng-trưởng tín-quyền.
- Quán sát về chân-tướng pháp qua ba trạng-thái vô-thường, khổ, vô-ngã.

Như thấy tấn-quyền già mạnh, làm giảm nhẹ bằng cách nghỉ ngơi cho lắng dịu lại... Các quyền khác cũng nên hiểu theo lý này.

Trong năm quyền cần phải quân-bình, trong đó tín-quyền và tuệ-quyền đi chung, tấn-quyền và định-quyền đi chung. Người có tín-quyền mạnh hơn tuệ-quyền, sẽ tin vào điều không đáng tin, nếu tuệ-quyền mạnh hơn sẽ phát-sinh nghi-hoặc, dẫn đến tà-kiến, để rồi chấp cứng vào tà-kiến ấy, rất khó chữa trị giống như người bị thuốc phản ứng.

Người có trí nhiều thường có sự thiên chấp về tâm, cho rằng: "sự làm phước quan trọng ở tâm, chỉ cần tâm mà thôi, không liên-hệ gì đến thân, ngữ". Do vậy, khi mệnh-chung thường rơi vào khổ-cảnh địa-ngục.

Khi tín, tuệ ngang nhau sẽ tin vào điều đáng tin và thấu triệt đúng đắn về điều được tin tưởng ấy. Nếu định-quyền mạnh, tấn-quyền yếu sẽ phát-sinh lười-biếng, rơi vào thụ-động vì định thiên về bất động, nếu tấn-quyền mạnh, định-quyền yếu, dễ phát-sinh tâm tán-loạn vì tấn thuộc về phần náo-động, năng động.

Tín và tuệ-quyền là thành-phần căn-bản cho đắc đạo (pháp-nhãn), cần phải quân-bình hai quyền này mới có tuệ-quán. Tấn và định-quyền là thành-phần căn-bản cho đắc thiền, hai quyền này phải quân-bình mới nhập-định được, tín-quyền và tấn-quyền cũng dễ-dàng làm cho nhập-định.

Nếu chuyên về thiền Chỉ, khi niệm già mạnh (tức là chú tâm vào một cảnh) có thể an-trú tâm vào định (là nhập-định) với thời gian dài. Nếu chuyên về thiền Quán, tuệ-quyền là cần thiết vì sẽ làm cho thông suốt thể tướng pháp. Nhưng chỉ bao giờ định tuệ quân-bình, khi ấy sự an-trú trong định mới thật toàn hảo, các pháp hoà nhập vào nhau không dư sót.

Giống như người đầu bếp thiện xảo, dọn lên cho đức-vua món vật-thực hoàn hảo là: các gia vị vừa đủ, không vị nào dư thừa, vật-thực vừa chín (không quá chín, cũng không chưa được chín).

Trong năm quyền, niệm-quyền cần nên già mạnh trong mọi lúc mọi nơi để canh phòng tâm, không cho tâm phóng túng theo tấn-quyền, không cho rơi vào lười-biếng bởi ảnh hưởng của định-quyền, không cho tâm phóng theo sự sai lạc của tín-quyền, ngăn chặn trí quyền vượt qua giới hạn làm nghi-hoặc sanh-khởi.

Nói chung, niệm-quyền cần đi chung với mỗi quyền, nếu quyền nào già mạnh, nó nâng đỡ quyền thân-cận với quyền ấy lên ngang bằng. Như tín-quyền mạnh, nó nâng đỡ tuệ-quyền lên ngang bằng tín quyền, tấn-quyền mạnh, nó nâng đỡ định-quyền lên ngang bằng.

Niệm-quyền ví như muối thường được nêm với tất cả món ăn. Hay ví như vị tướng quốc thường xử lý mọi việc trong nước. Do nhân này, Ðức Thế-tôn dạy rằng:

- "Vì sao tâm phải nương vào niệm, phải có niệm phòng-hộ cho tâm? Vì rằng: khi có niệm, tâm không quá lừng lẫy, cũng không quá lui sụt". (Tăng-chi kinh)

Có thể có nghi-hoặc đối với hành-giả tu-tập thiền Quán, thiền Quán chú trọng về trí, nghiêng về trí.

Trí quyền già mạnh là điều tốt, vì sao lại có tác hại như khi mệnh-chung rơi vào khổ-cảnh? Ðúng vậy, trí là một pháp thiện, trí là điều cần thiết quan trọng nhất trong lãnh-vực thiền Quán. Thật ra, trí cũng cần thiết trong mọi lãnh-vực, công-năng của trí là soi rọi để tâm thấy được đúng -sai của sự-kiện.

Trong lãnh-vực ngoại thân, nó soi rọi để tâm thấy tác hại dẫn dắt chúng-sanh rơi vào khổ-cảnh qua sự vi-phạm giới-hạnh do năm trần-cảnh tác-động, khi an-trú vào giới-hạnh đưa đến tốt đẹp, an lạc.

Trong lãnh-vực ý, nó soi rọi để tâm thấy những nguy-hiểm do đắm-nhiễm vào tịnh-tướng. Thấy được sự an lạc khi từ bỏ năm trần-cảnh, đoạn tận tham-ái.

Trong lãnh-vực tùy-miên, chính nó là kẻ quét sạch nền-tảng si-mê, căn cứ địa của mọi nổi khổ luân-hồi.

Nhưng tác-dụng tốt đẹp của trí chỉ có được khi các pháp đồng sanh với nó nhất là các quyền, có sự quân-bình hoặc thua kém chút ít. Nếu trí quá già mạnh, trong khi các quyền khác quá yếu thì tác-dụng của trí không có, thậm chí có thể gây tai hại là khác. Ví như một đoàn có năm người, trong đó có một người cầm vật phát sáng để soi đường cho cả nhóm, nhưng y chạy quá nhanh, ánh sáng theo y vượt xa phía trước, bốn người còn lại không theo kịp. Thế là cả bốn rơi vào tăm tối và lạc mất nhau. Hoặc ví như ánh sáng quá mạnh có thể làm mù mắt yếu kém.

Mặc khác, trí quá già mạnh trong khi bốn quyền kia yếu ớt, có thể đưa chúng-sanh rơi vào khổ-cảnh là vì:

- Nương theo trí: tà-kiến, hoài-nghi sanh lên.
- Có sự thiên chấp về tâm: cho rằng phước tùy thuộc ở tâm, vì thế không tạo phước bằng thân -ngữ.

Lấy pháp bố-thí ra để minh họa: Ðức Phật có dạy rằng: ba điều khiến bố-thí được hoàn hảo là: tâm thí, đối-tượng thí và vật thí. Nếu một người chỉ có tâm thí mà đối-tượng thí cùng với vật thí lại không có, thì y bố-thí cho ai? Bố-thí bởi vật gì? Không có, như thế tâm thí ấy không có tác-dụng, không mang đến kết quả lợi-ích nào cả.

Hoặc lấy một pháp khác trong 10 điều sanh phước là Trì-giới. Người thiên về trí biết được rằng: Sự giữ giới quan trọng là do có cố ý vi-phạm hay không (veramanī đồng nghĩa với ceṭanā = cố ý). Do đó, y chỉ "cố ý không sát-sanh", nhưng thân lại vi-phạm, "cố ý không nói dối" nhưng ngữ vi-phạm... Thế là giới của y bị ô-nhiễm, bị rách "te tua".

Ví như một sợi dây được se lại bằng bốn hay năm sợi nhỏ. Nhưng ba hay bốn sợi bị đứt, chỉ còn lại sợi dây "cố ý không vi-phạm" thì sợi dây ấy cũng không dùng được gì.

Hay lấy một điều khác trong mười điều sanh phước là Cung-kỉnh. Một người chỉ có tâm cung-kỉnh, thân -ngữ không có, thì cái cung-kỉnh ấy chỉ còn là cách đối đãi bình thường giữa người và người mà thôi. Có còn chăng, chỉ là vài giọt nước cung-kỉnh ở bên trong, chẳng có tác-dụng gì lớn cả.

Phục vụ chẳng hạn: Nếu chỉ có tâm phục vụ, thân -ngữ không có, thì sự phục vụ kia không mang lại lợi-ích thiết-thực nào cả ...

Do đó, nói rằng: trí quá già mạnh, trong khi các quyền kia yếu-đuối, sẽ mang đến tác hại, khi lâm-chung dễ-dàng rơi vào khổ-cảnh nhất là địa-ngục.

Ví như gió thổi nhè nhẹ mang lại sự mát-mẽ cho mọi người, nhưng gió lớn mạnh lại trở thành giông bảo mang lại tai-họa.

Ðiều 4: Là không gần gũi, giao du với người đam mê dục-lạc, đắm-nhiễm trong ngũ trần, hay là người không hiểu biết về những pháp thâm sâu như uẩn, xứ ...

Ðiều 5: Thân-cận người có trí là gần gũi, học hỏi nơi người có trí hiểu biết rành mạch về sự sanh diệt của pháp hữu-vi.

Ðiều 6: Quán-xét đúng đắn các pháp thâm sâu, là nhận xét bản chất của uẩn, xứ, giới ... bằng sự bén nhọn sắc sảo của trí minh-sát.

Ðiều 7: Chú tâm về trạch-pháp là hướng tâm quán-xét rõ ràng về nhân sanh -diệt của mỗi một oai-nghi, mỗi diễn tiến của tâm-thức.

3- Tấn giác-chi (Viriya sambojjhaṅga)

Chi pháp bản thể của tấn là sở-hữu tinh-tấn, nhưng khi tấn hoạt động trong lãnh-vực nào, nó có tên gọi theo lãnh-vực ấy, như:

- Khi kiên-trì nỗ-lực ngăn chặn mọi ác pháp đang sanh hay chưa sanh, ủng hộ các thiện-pháp đang sanh, làm sanh-khởi những thiện-pháp chưa sanh, có tên gọi là Chánh-cần.

- Khi nỗ-lực nhiệt-tâm để thành-tựu những pháp cao-thượng, được mang tên Tấn như-ý túc.

- Trong lãnh-vực cai quản, kiểm-soát các pháp đồng sanh với nó, thì gọi là Tấn-quyền. Còn có sức mạnh, không rung động trước sự biếng nhác, gọi là Tấn-lực.

- Trong phương diện đưa đến giác-ngộ, thoát ra khổ luân-hồi gọi là Tấn giác-chi.

Hành-giả lúc thối chí, biếng nhác trong công việc tu-tập, hành-giả nên nhớ lại đời sống của Ðấng Ðạo-sư.

Ðời sống của đức Phật cho thấy rằng: Ngài không bao giờ có sự mệt mõi tinh-thần hay đạo-đức. Từ lúc thành-đạo Vô-thượng Chánh-giác cho đến phút cuối, trải qua nhiều năm mang lợi-ích đến chúng-sanh, thuyết-giảng những pháp nhằm mục-đích nâng cao phẩm hạnh con người, Ngài không bao giờ có sự dã-dượi biếng nhác tinh-thần, cho dù thân xác Ngài lắm khi phải mệt mõi vì ốm đau, đồng thời phải trải qua những sự chống đối, phỉ báng, ám hại của thế-gian, phải trải qua những nghịch-cảnh của đời sống.

Cho dù không ai ép buộc (thật ra, chẳng một ai có thể ép buộc được Ngài) Ngài vẫn tuân thủ năm phận-sự suốt 45 năm trường không hề ngừng nghỉ. Ðó là:

1- Pubbaṇhe piṇḍapāṭaṃ: buổi sáng trì bình khất thực.
2- Sāyaṇhe dhammadesanaṃ: buổi xế thuyết-pháp cho hàng cư-sĩ.
3- Padase bhikkhu ovādaṃ: buổi chiều giảng dạy chư tỳ-khưu.
4- Aṇḍharaṭṭe devapañhanaṃ: lúc nửa đêm trả lời, giải đáp những nghi vấn của chư-thiên.
5- Paccūseva goṭe kāle bhabbābhabbe vilo-kanaṃ: hừng sáng Ngài quán-xét, xem chúng-sanh nào có duyên lành, Ngài đến tế độ.

Năm phận-sự này không hề gián đoạn suốt 45 năm hoằng pháp của Ngài.

Hành-giả suy nghĩ rằng: "Vì hạnh-phúc của chúng-sanh (chẳng phải vì lợi-ích của Ngài), Ðức Ðạo-sư không ngừng cố-gắng, không phải bao giờ Ngài cũng khoẻ mạnh nhưng Ngài không hề giảm sút nỗ-lực về mặt tinh-thần. Ta là môn đệ của Ngài, vì lợi-ích cho chính mình, tại sao ta lại biếng nhác chứ? Người có trí sẽ chê trách ta, không tán thán ta". Ðó là động cơ thúc giục sự tinh-tấn trỗi dậy trước sự biếng nhác đang ngự-trị tâm hành-giả.

Có những vần thơ mô tả về Ðức Thế-tôn như sau:

"Bậc toàn thắng thật tuyệt vời,
Ngài luôn chuyên cần không hề biết mệt,
Ðem phước lành đến mỗi chúng-sanh,
Ðem tiện nghi an lành đến mọi cuộc sống".

Giáo-pháp của đức Phật là giáo-lý dành riêng cho những người có trí và có nhiệt-tâm, dũng-mãnh. Quyết tâm thành-đạt mục tiêu cứu cánh, giáo-pháp này không dành cho người biếng nhác thiếu suy-tư.

Araddhaviriyassayaṃ dhammo neyaṃ dham-mo kusiṭassa. (Tăng-chi kinh).

Ðức Phật không bao giờ tự xưng mình là người có khả-năng ban thưởng đạo-quả Níp-bàn cho mọi người theo tùy thích. Trái lại, Ngài dạy rằng: Mỗi người phải mang hậu quả của hành động bất-thiện do mình tạo ra, muốn thoát ra những ác quả tai hại đó, người ấy phải tự mình giải quyết lấy.

Và theo đúng lời dạy của đức Phật: người muốn giải thoát khổ, phải tự mình nỗ-lực bằng tất cả nhiệt-tâm cần thiết để tự mình thăng tiến trên đường giải-thoát.

Ðức Phật chỉ là người khám phá ra " con đường ", Ngài chỉ rõ, soi sáng "con đường" ấy, cho những ai muốn đi, còn đi hay không là do quyết định của người ấy, Ngài không cưỡng chế tư-tưởng của bất kỳ ai.

Ðức Phật chỉ gián tiếp giải-thoát khổ cho chúng-sanh, chứ không trực tiếp làm điều ấy được. Có phải Ngài bất lực không? -Ðúng vậy, vì Ngài không phải là bậc toàn năng, đơn giản Ngài chỉ là bậc Ðại Giác-ngộ, Ðại Ðạo-sư, có thế thôi.

Vị thầy chỉ gián tiếp giúp học trò giải một bài toán khó, bằng cách chỉ ra phương-pháp giải và người trò phải tự mình giải lấy. Nếu người thầy trực tiếp giải bài toán thì kết quả ấy là của người thầy chứ không phải của người trò, người trò chẳng có lợi-ích chi.

Ðức Phật có dạy rằng:

Aṭṭā hi aṭṭano nāṭho,
Ko hi nāṭho paro siyā,
Aṭṭanā’ va sudanṭena,
Nāṭhaṃ labhaṭi dullabhaṃ.

"Chính ta là cứu tinh của ta.
Thật vậy, chẳng ai cứu được ta.
Khéo kiểm-soát mình,
đó là vị cứu tinh khó gặp". (Pháp Cú 160)

Hay là:

Yo ca pubbe pamajjiṭvā
Pacchā so nappamajjaṭi
So imaṃ lokaṃ pabhāseṭi
Abbhā muṭṭo’ va candimā.

"Người trước kia phóng-dật,
sau chuyên cần tu niệm.
Người như thế sẽ rọi sáng thế-gian,
như vầng trăng thoát khỏi mây che". (Pháp Cú 172)

Bất cứ trường-hợp nào, người theo chân Ðấng Giác-ngộ, không nên mất niềm hy-vọng giải-thoát khổ và không nên ngừng tinh-tấn. Cần phải kiên-trì nỗ-lực để thành-đạt mục tiêu ấy.

Khi đức Phật còn là Bồ-tát, trong nhiều kiếp Ngài luôn luôn tinh-tấn dũng-mãnh để đạt thành quả vị Vô Thượng Chánh-giác, phương châm của Ngài là: "Mā nivaṭṭa abhikkama: Không chùn bước, luôn thẳng tiến".

Phận-sự tinh-tấn có bốn là:

- Tinh-tấn ngăn chặn điều ác không cho sanh-khởi.
- Tinh-tấn đoạn trừ các ác pháp đang sanh.
- Tinh-tấn hộ trì những thiện-pháp chưa sanh, cho sanh-khởi.
- Tinh-tấn hộ trì những thiện-pháp đang sanh.

Chánh-cần và tấn giác-chi có điểm này là giống nhau, nhưng có điểm khác biệt là: Chánh-cần có mục-đích " lánh xa ác bất-thiện pháp, tích lũy thiện-pháp ; trái lại, tấn giác-chi có khuynh-hướng " dẫn xuất ra khỏi luân-hồi ". Ðây là điểm đặc biệt, hành-giả cần lưu ý trong khi tu-tập tấn giác-chi, tức là không thể đồng hóa chánh-cần là tấn giác-chi, nếu đồng hóa chánh-cần là tấn giác-chi sẽ làm khiếm khuyết tuệ-quán.

Hành-giả cần phải hiểu rằng: chánh-cần là thiện, là điềm báo hiệu cho tấn giác-chi sanh-khởi. Như đức Phật dạy rằng:

"Này chư tỳ-khưu! Ví như điềm báo trước mặt trời sắp mọc là rạng đông, cũng vậy, này các tỳ-khưu! điềm báo trước bảy giác-chi sanh-khởi là làm bạn với thiện ... ".

Và:

"Này các tỳ-khưu! Ví như điềm báo trước mặt trời sắp mọc là rạng đông, cũng vậy, này các tỳ-khưu! điềm báo trước bảy giác-chi sanh-khởi là tác-ý đúng... ". (Tương-ưng kinh)

Qua hai đoạn kinh trên, chúng ta thấy: Tác-ý đúng và làm bạn với thiện làm sanh-khởi bảy giác-chi.

Ở đây, bốn chánh-cần là thiện, là nhân sanh-khởi tấn giác-chi, nhưng mục-đích của chánh-cần là tích lũy thiện, không cho thiện bể vụn, hư hoại do ác pháp sanh-khởi, còn mục-đích của tấn giác-chi là đoạn tận nghiệp, dẫn đến đoạn tận khổ.

"Này các tỳ-khưu! Con đường nào, đạo lộ nào đưa đến đoạn tận khát ái. Hãy tu-tập con đường ấy.

Này các tỳ-khưu! Con đường, đạo lộ đưa đến đoạn tận khát ái, đó là bảy giác-chi ...

Này Udāyi! Như vậy, do khát ái đoạn tận, nên nghiệp đoạn tận. Do nghiệp đoạn tận nên khổ đoạn tận". (Tương-ưng kinh)

Ðể nhận định rõ ràng hơn vấn đề này, chúng ta xét qua kết quả của chánh-cần và tấn giác-chi. Chánh-cần tích lũy thiện, gìn-giữ thiện không cho hư hoại, bể vụn nên kết quả của chánh-cần là quả an lạc, quả trắng, còn Tấn giác-chi có kết quả như thế nào?

Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:

"Này chư tỳ-khưu! Có bốn nghiệp này được Như-lai chứng ngộ với thắng-trí và thuyết-giảng. Thế nào là bốn?

Này chư tỳ-khưu! Có nghiệp đen (có) quả đen, nghiệp trắng (có) quả trắng, nghiệp đen trắng có quả đen trắng, nghiệp không đen không trắng có quả không đen không trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn-diệt ...

Này chư tỳ-khưu! Thế nào là nghiệp không đen không trắng có quả không đen không trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn-diệt?

Niệm giác-chi, trạch-pháp giác-chi,... xả giác-chi, gọi là nghiệp không đen không trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn-diệt.

Này chư tỳ-khưu! Bốn nghiệp này được Như-lai chứng ngộ với thắng-trí và tuyên thuyết". (Aṅguṭṭara-nikāya)

Do đó, trong sự tu-tập bảy giác-chi, hành-giả nên nhận-định rõ ràng về ý-nghĩa cùng mục-đích của giác-chi.

Chánh-cần được tu-tập đồng nghĩa là bảo tồn thiện-pháp, gần gũi thiện, làm bạn với thiện. Ðó là nhân để sanh-khởi tấn giác-chi.

Vấn đề được đặt ra là: Làm thế nào để bảo tồn thiện luôn luôn được tinh sạch? Chính là sự suy-tư đến thiện liên-hệ với thiện, nhờ đó các suy-tư liên-hệ đến dục, sân, si, ác bất-thiện pháp không thể sanh-khởi, đang sanh-khởi bị đoạn trừ. Tức là, hành-giả nỗ-lực trong sự suy-tư về thiện-pháp, khi có một tư-tưởng ác xấu sanh-khởi, nó sẽ bị tiêu diệt ngay.

"Ví như người thợ mộc thiện xảo hay đệ tử người thợ mộc, dùng một cái nêm nhỏ, đánh bật ra, đánh tung ra cái nêm khác...". (Kinh Đình chỉ tư duy, Trung bộ kinh)

Ðối với người lười-biếng, không tinh-tấn, con đường trong sạch xem như bị khóa chặt.

Hành-giả là người có nguyện vọng thành-đạt giác-ngộ, phải tự nung đúc mình một ý chí dũng-mãnh với đức-tin không thối chuyển. Và sự giác-ngộ, giải-thoát khổ không nằm ở ngoài ta, nằm ở chính trong thân ngũ-uẩn.

"Này Rohiṭassa! Như-lai tuyên bố, chính trong thân ngũ-uẩn có sự khổ và sự diệt khổ". (Aṅguṭṭara-nikāya)

Hành-giả nên lập tâm rằng:

"Bổn phận của ta là phải nỗ-lực đạt cho được sự giải-thoát, cửa giải-thoát không hề đóng khóa chặt, chìa khóa mở cửa giác-ngộ không nằm trong tay ai cả, nên ta không cần phải van vái nguyện cầu để được ban bố.

Cánh cửa giải-thoát của ta không bao giờ cài khóa chắc, chỉ có ta là người cài khóa chắc bằng sự biếng nhác".

Ðức Phật có dạy rằng:

Uṭṭhānakālamhi anuṭṭhāno
Yuvā balī ālasiyaỵ upeṭo
Saṃsannasaṅkappamano kusīṭo
Paññāya maggaṃ alaso na vindaṭi.

"Người sống tiêu cực, uể-oải, không tinh-cần trong thời cần phải tinh-cần,
người tuy trẻ tuổi, khỏe mạnh vẫn lười-biếng với tinh-thần suy nhược,
sẽ không có trí-tuệ chứng ngộ con đường giải-thoát". (Pháp Cú 280)

Ðó là động cơ thúc giục sự nỗ-lực tinh-cần khởi lên trong tâm của hành-giả với ý chí mãnh-liệt.

Có mười một nhân sanh và làm tăng-trưởng Tấn giác-chi là:

1- Suy-gẫm hiểm-họa trong bốn đường ác.
2- Quán-xét về ân-đức của pháp tinh-cần hành thiện.
3- Quán-xét về cách tu tiến.
4- Quán-xét đến ân-đức của bậc Ðạo-sư.
5- Quán-xét đến sanh chủng cao quí.
6- Hằng thực-hành tinh-tấn bằng pháp trì bình khất thực.
7- Quán-xét đến di-sản lớn.
8- Quán-xét đến phạm-hạnh bậc Thánh.
9- Không thân-cận người làm biếng.
10- Thân-cận người có sự tăng tiến.
11 -Hướng tâm đến tấn giác-chi.

Giải rằng.

1- Suy-gẫm hiểm-họa trong bốn đường ác: Là nghĩ đến bốn khổ-cảnh: địa-ngục, bàng-sanh, ngạ-quỉ, A-tu-la.

Suy-nghiệm rằng: sanh vào những hạng chúng-sanh như thế, không thể hành thiện-pháp được.

Trong hiện-tại, nếu ta bỏ lỡ cơ hội, không tạo nghiệp thiện chắc chắn ta phải rơi vào những hạng người ấy trong vị-lai.

Khổ do tinh-cần sanh lên chỉ là tương đối thôi, còn khổ trong ác đạo-quả thật đáng kinh-sợ.

Như người đang bị ngọn lửa đuổi theo phía sau, người ấy gắng sức chạy đến nơi an-toàn như thế nào. Cũng vậy, ta cần phải nỗ-lực tinh-cần đạt cho được sự thoát khỏi bốn ác đạo bằng thánh quả Dự-lưu.

2- Quán-xét về ân-đức của tinh-tấn: Là quán thấy rằng: Người biếng nhác không thể thành-tựu pháp siêu-thế là bốn đạo, bốn quả và Níp-bàn. Chỉ có người có sự tinh-cần mới đạt được pháp siêu-thế, vậy ta nên tinh-cần để đạt được pháp cao-thượng ấy.

3- Quán-xét về cách tu tiến: Là quán thấy rằng: người biếng nhác không thể đi trên con đường mà chư Phật, chư thánh đi qua, tinh-tấn là một yếu tố của con đường ấy.

Sự tu tiến của ta nếu có sự biếng nhác, xem như đứng lại trên con đường mà ta cần phải trải qua để trở thành những bậc Thánh Thinh-văn.

4- Quán ân-đức của Ðấng Như-lai: Bậc Ðạo-sư là tối thượng-nhân, cả mười ngàn thế giới rung động khi Ngài (còn là Bồ-tát) nhập thai bào, khi đản sanh, khi giác-ngộ Phật-quả, Ngài chuyển Pháp-luân, thị hiện Song-thông, Ngài ngự về cõi nhân-loại sau khi tế độ thiên tử Māyā (mẫu thân của Ngài khi còn là Bồ-tát), Ngài từ bỏ thọ hành và lúc Ngài tịch diệt. Tất cả những thời ấy toàn thế giới đều rúng động. Ta là người có phước lớn, được xuất-gia, được nương theo Ngài, trú trong pháp-luật này. Thật đáng chê trách nếu ta biếng nhác, giãi đãi.

5- Quán-xét đến sanh chủng cao quí: Ta là người có sanh chủng cao quí, vì là người thọ-trì tam quy, được xuất-gia trong pháp-luật này, được kể là sanh vào giòng họ của đức-vua Okkāka, tổ tiên của đức-vua Tịnh-phạn giòng Sakya.

Nói đúng hơn, ta là cháu của đức-vua Tịnh-phạn và hoàng hậu Māyā. Do vậy, ta được kể là em của Ngài Rāhula, con của bậc tối thắng, thật không tương xứng với giòng giống anh hùng Sakya nếu ta chỉ là tên lười-biếng.

6- Thực-hành tinh-tấn bằng pháp khất thực: Những tín thí cúng dâng vật-thực là những người không phải thân quyến, bạn hữu gì của ta cả. Sở dĩ, họ cúng dường đến ta vì mong cầu quả phước, ta không nên dễ-duôi trong sự thọ dụng với sự biếng nhác hành-đạo cao-thượng.

Nhưng bậc Ðạo-sư có dạy nên nuôi mạng bằng pháp khất thực, nhằm mục-đích tránh cho vị tỳ-khưu phát-sanh lười-biếng, hưởng-thụ. Ðức Thế-tôn chỉ tán thán vị tỳ-khưu tinh-cần hành-trì sa-môn hạnh để thoát ra khổ.

Ðức Thế-tôn có dạy sự thọ-dụng bốn món vật-dụng có ba loại: thọ-dụng như mang nợ, thọ-dụng như người thừa tự, thọ-dụng như người chủ.

Vị Thánh Hữu-học là người thọ-dụng như người thừa tự, vị Thánh Vô-lậu là người thọ-dụng như người chủ. Còn ta là phàm-nhân, thọ-dụng tứ sự mà không tinh-tấn hành pháp là người thọ-dụng như kẻ mang nợ. Giờ đây, nếu ta thọ-dụng mà biếng nhác, tai-họa sự khổ sẽ có cho ta.

7- Quán-xét đến di-sản lớn: Bảy tài-sản của bậc Thánh là tài-sản to lớn, đó là tài-sản của đức Ðạo-sư truyền lại cho con Ngài, cho những người có sự tinh-cần hành pháp, theo sự giáo giới của Ngài. Ví như cha mẹ trao lại tài-sản lớn cho những đứa con ngoan ngoãn, làm theo lời dạy bảo của mình.

Nếu ta là kẻ biếng nhác sẽ không thể nhận lãnh di-sản quí báu ấy được. Bảy thánh sản ấy (là: tín, giới, tàm, quí, văn, thí, tuệ) dù là một loại, ta cũng không nhận được nếu lười-biếng.

8- Quán-xét đến phạm-hạnh bậc Thánh: Các bậc phạm-hạnh như trưởng-lão Sārīpuṭṭa, Moggallāna, Mahā kassapa ... các Ngài đã hoàn toàn chứng-đắc pháp siêu-thế bằng sự nỗ-lực tinh-tấn.

Ta có nên theo gương các bậc ấy chăng? Liệu ta có tài giỏi hơn các bậc ấy không?, mà không cần nỗ-lực tinh-tấn cũng đắc đạo-quả?.

Các điều 9 -10 -11 cũng dễ hiểu, nên không cần giải thích rộng.

4- Hỷ giác-chi (Pīṭi bojjhaṅga)

Thực-tính pháp của hỷ giác-chi là sở-hữu hỷ. Sở-hữu hỷ khác với thọ-hỷ, sở-hữu hỷ là trạng-thái vui thích đối với cảnh, còn thọ-hỷ là thọ lãnh sự vui thích.

Một người đi đường xe mệt mỏi, khát nước, y thấy hồ nước trong mát nên vui mừng, đến nơi y uống nước một cách thích-thú. Trạng-thái vui thích trước khi uống nước là Sở-hữu hỷ, còn uống nước một cách thích-thú là Thọ-hỷ.

Hỷ giác-chi ở đây là nói đến trạng-thái thích-thú, hân-hoan, không đắm-nhiễm trong đối-tượng, có mục-đích dẫn ra khỏi khổ. Hỷ là một đức-tính có ảnh hưởng sâu rộng, bao gồm cả thân tâm. Khi hỷ được tu-tập phát-triển, thân hành-giả có cảm giác nhẹ nhàng hay cảm thấy thân tràn đầy sinh lực, sẵn-sàng làm bất kỳ việc gì, không hề e-ngại khó khăn, mệt nhọc.

Người thiếu sự hân-hoan, không thể vượt qua con đường giác-ngộ để thành-đạt cứu cánh giải-thoát, vì không hân-hoan, nên không thể kham-nhẫn, chịu-đựng trước những chướng-ngại, khó khăn. Ví như người đi lạc trong rừng đầy hiểm-họa, chợt nhìn thấy con đường dẫn ra khỏi rừng, nếu y hân-hoan, sẽ nhanh chóng vượt ra khỏi rừng trước khi hiểm-họa xảy đến. Trái lại, nếu y không hân-hoan, sẽ uể-oải lê bước, y khó có thể ra khỏi rừng trước khi hiểm-họa xảy đến.

Một nỗi buồn man mác, một trạng-thái lãnh-đạm thờ ơ, một sự không hân-hoan thích-thú trước pháp thiền Chỉ hay thiền Quán sẽ dẫn đến một sự bất-mãn, không toại-nguyện. Ðó là hiển tướng của trạng-thái thiếu hay không có pháp hỷ. Như vậy, pháp hỷ là một điều rất cần thiết để bước vào một cuộc hành-trình chinh phục đau-khổ, thoát ra khổ luân-hồi.

Hành-giả là người có nguyện vọng thành-đạt sự giác-ngộ, giải-thoát khỏi những ràng buộc vào cuộc lăn trôi vô định của luân-hồi, cần phải cố-gắng trau dồi pháp hỷ này. Không ai có thể ban hạnh-phúc cho ai cả, mỗi người tự xây hạnh-phúc bằng sự cố-gắng của chính mình, tích cực suy-niệm làm cho tâm an-trụ, chính sự an-trụ tâm, hỷ-lạc mới sanh lên.

Có hai loại hỷ: hỷ hướng về bên ngoài, hỷ hướng về bên trong. Hỷ hướng về bên ngoài là trạng-thái thích-thú trước năm trần-cảnh, đây là loại hỷ cần nên từ bỏ. Hỷ hướng về bên trong là trạng-thái thích-thú trước những pháp đáng hài lòng, đáng thích ý.

Loại hỷ này cũng có hai loại:

- Loại hỷ thích-thú trước pháp đáng thích-thú, liên-hệ đến dục, liên-hệ đến bất-thiện pháp, loại hỷ này cần xa lánh, cần từ bỏ, cần đoạn-trừ.

- Loại hỷ thích-thú trước pháp đáng thích-thú, liên-hệ đến thiện-pháp, loại hỷ này nên thân-cận, nên tu-tập, nên làm cho sung-mãn.

Và loại hỷ thân-cận với thiện-pháp, là điềm báo cho hỷ giác-chi sanh-khởi. Do đó, không nên tìm sự thích-thú, hân-hoan ở bên ngoài, cho dù chỉ chút ít nhỏ nhoi, cảnh vật bên ngoài cũng ảnh hưởng không ít đến tâm.

Biện-pháp nào có thể giúp hành-giả xa lánh sự thích-thú hướng ra ngoài? Trước hết, phải đề cập đến tác-ý xa lánh năm trần-cảnh đáng hài lòng, kế đến là hạnh tri-túc (biết vừa đủ).

Tri-túc là một đặc điểm của hạnh-phúc, người thường trong thế-gian dường như có ý nghĩ rằng: "hạnh-phúc rất khó phát-triển trong tri-túc, hạnh-phúc chỉ có được khi phát-triển vật-chất sung-mãn". Nhưng chính hài lòng với sự vừa đủ, người ấy không tầm cầu những dục-lạc thế-gian, đồng nghĩa xa lánh tham-ái. Ðó là một hạnh-phúc thù-thắng.

Trong Tăng-chi kinh có đoạn kinh ghi lại những lời đối thoại giữa Ðức Thế-tôn cùng Hoàng-tử Haṭṭhaka người Ālïavī, khi Ngài ngự trong rừng Siṃsapā ở xứ Gomagga, tóm lược như sau:

Hoàng-tử Haṭṭhaka cho rằng: "Sự an lạc là do thụ-hưởng những vật-dụng tốt đẹp". Ðức Thế-tôn hỏi Hoàng-tử Haṭṭhaka:

- "Khi thân tâm bị nung nấu bởi những nhiệt não do tham-ái sanh. Người ấy có đau-khổ không?.

- Thưa có! Bạch Thế-tôn.

- Khi thân tâm không bị nung nấu bởi những nhiệt não do tham-ái sanh, người ấy có đau-khổ không?.

- Bạch Thế-tôn! không.

- Như-lai tận diệt được tham-ái, cắt đứt gốc rễ tham-ái, như cây Tālā bị đứt rễ không thể sanh-khởi trong tương-lai. Do đó, Như-lai cảm thấy an lạc".

Ý đức Phật dạy rằng: "Tuy thọ hưởng dục-lạc đầy đủ, nhưng thân tâm bị tham ái ngự-trị, người ấy vẫn đau-khổ. Trái lại, tuy không thọ hưởng vật-dụng tốt đẹp, nhưng thân tâm thoát ra tham-ái, người ấy không đau-khổ "

Trong thế-gian, người có ý nghĩ như Hoàng-tử Haṭṭhaka nhiều vô số, họ cho rằng: "Hạnh-phúc là được thọ hưởng những vật-dụng trong thế-gian".

Rất ít người nghĩ rằng: "Sự hạnh-phúc, an lạc có được là do không bị nô-lệ của tham-ái , do không đắm-nhiễm trong tham-ái ".

Do đó, người thường trong thế-gian hình như có ý nghĩ: "rất khó trau dồi, phát-triển hạnh tri-túc". Tuy nhiên, nếu hành-giả quyết-tâm kiên-trì dũng-mãnh, chú-ý và suy-tư chân-chánh về những gì thường gặp hằng ngày. Ðồng thời, kiểm-soát những khuynh-hướng bất-thiện, ngăn-chặn, kìm-chế những tầm-cầu trong những quyến-rũ của vật-chất, không riu ríu phục-tùng một cách hồn-nhiên thơ-dại trước dục-lạc, khi ấy hành-giả cảm nhận an-lạc của hạnh tri-túc.

Trong Pháp-cú kinh, đức Phật có dạy:

Maṭṭā sukhapariccāgā
Passe ce vipulaṃ sukhaṃ
Caje maṭṭā sukhaṃ dhīro
Sampassaṃ vipulaṃ sukhaṃ.

"Nếu từ bỏ hạnh-phúc nhỏ nhoi mà có thể thành-đạt hạnh-phúc lớn.
Người thiện-trí hãy từ bỏ hạnh-phúc nhỏ để mưu cầu hạnh-phúc lớn". (Pháp Cú 290)

Hạnh-phúc nhỏ và lớn là sự so sánh tương-đối với nhau. Ðức Phật có dạy rằng: Lạc trong vật-chất là nhỏ so với lạc sơ-thiền, lạc sơ-thiền là nhỏ so với lạc nhị-thiền ... lạc của thiền-định là nhỏ so với lạc sơ đạo ... Và tối thắng là Níp-bàn lạc.

"Nibbānaṃ paramaṃ sukhaṃ: Níp-bàn là lạc tối-thượng".

Hạnh-phúc thật sự không phải bám víu hay nắm chặc lấy những vật-chất vô-tri, luôn cả những gì thuộc hữu-giác như thân-bằng, hội-chúng, đệ-tử, con cái, tôi tớ... hạnh-phúc thật sự là hạnh-phúc không bị trói-buộc vào những điều trên, không bị đắm-nhiễm bởi danh-sắc của thế-gian.

Hỷ giác-chi là sự thích-thú trước đối-tượng vô-nhiễm, trước những hạnh-phúc không bị vướng-lụy. Và tri-túc là điều-kiện trợ giúp cho hỷ giác-chi sanh-khởi trước đối-tượng không có sự khao-khát dục-vọng.

Susukhaṃ vaṭa jīvāma
Ussukesu anussukā
Ussukesu manussesu
Viharāma anussukā.

"Hạnh-phúc thay! ta sống không khao-khát (dục-vọng).
Giữa những người khao-khát, ta sống không khát khao". (Pháp Cú 199)

Trong tâm chúng-sanh, thường xảy ra những xung đột đủ loại, chúng chống báng lẫn nhau, những ý thiện chống đối ý bất-thiện và ngược lại.

Ðó cũng là điều-kiện khiến hỷ giác-chi không có mặt, vì có chống đối là có khó chịu, có triệt hạ. Nếu ý bất-thiện mạnh thì ý thiện không thể sanh-khởi, thế là hỷ giác-chi không có mặt, còn nếu ý thiện mạnh, ý bất-thiện bị đẩy lùi, bị áp chế, ở trong trạng-thái này hỷ giác-chi cũng chưa thể xuất hiện vì thiện chưa sung-mãn.

Do đó, hành-giả cần có sự kiểm-soát tâm để những tư-tưởng thụ-hưởng dục-lạc không còn cơ hội sanh lên, lập nền móng cho hỷ giác-chi xuất hiện.

Mặc dù ta chưa đủ năng-lực trừ diệt dục-ái, nhưng khả-năng giữ mình, không buông lỏng tâm phóng túng theo khuynh-hướng dục-vọng xấu xa, điều ấy có thể làm được. Nói cách khác, hạnh tri-túc là sự giữ tâm không cho phóng theo khuynh-hướng tầm cầu dục-lạc.

Ðức Phật dạy rằng: "Dục-lạc không bao giờ được thoả mãn hoàn toàn".

Hạnh-phúc vật-chất chỉ là sự thoả mãn một vài ước vọng, nhưng khi vừa đạt được, nó đã vội lìa bỏ ta và ta không bao giờ cho là đủ.

Na kahapaṇavassena
Tiṭṭi kāmesu vijjaṭi
Appassādā dukhā kāmā
Iṭi viññāya paṇḍiṭo.
Api dibbesu kāmesu
Raṭiṃ so u’ādhigacchaṭi
Taṇhakkhayaraṭo hoṭi
Sammāsambuddhasāvako.

"Trận mưa vàng không làm cho hạnh tri-túc phát-sanh đến người dục-lạc.
Khoái-lạc vật chật chất chỉ đem lại chút ít êm đềm, nhưng nhiều đau-khổ.
Biết như thế, bậc thiện-trí không tìm thoả thích trong khoái-lạc dù ở cảnh trời.
Hàng môn đệ Ðấng Toàn-giác hoan-hỷ tận diệt ái-dục". (Pháp Cú : 186 -187)

Chính sự kiểm-soát tâm qua pháp tri-túc, là cách rèn-luyện tâm trường kỳ trong sự từ bỏ, xa lánh những vị khách xấu xa: tham-dục, sân-hận, lười-biếng ... Ðó là những vị khách lắm chuyện, cứ thuyết-phục, quyến-rũ ta hướng về khoái-lạc, khi ta rơi vào vòng, trở thành nô-lệ của dục-vọng, những người khách này sẽ tàn hại, đày đọa ta không thương tiếc.

Giờ đây, ta chưa đủ năng-lực trục xuất những người khách "ngồi dai như đĩa" ra khỏi căn nhà của tâm. Ta sẽ ẩn trú vào chiếc áo giáp được đức Phật ban cho, chiếc áo giáp ấy sẽ vô-hiệu hoá những vũ khí dục-lạc mà những người khách này dùng tấn công. Ðó là áo giáp "tri-túc".

Bao giờ những vị khách này muội-lược, ta mạnh-mẽ, ta sẽ nắm cổ từng người, ném quăng về thế giới ảo ảnh phù-du của họ. Và tâm hành-giả hân-hoan, thích-thú khi không còn những ông khách xấu xa. Ðó chính là hỷ giác-chi.

Sự từ bỏ ấy chính là sự từ bỏ đúng đắn, từ bỏ suông ở bên ngoài như nhịn đói, gội rửa dưới sông Hằng hay hơ mình cạnh đống lửa lớn ... không thể thanh-lọc tâm, không thể mang lại hạnh-phúc vô-nhiễm dục-lạc, đó chỉ là hình-thức khổ-hạnh mà thôi.

Hỷ liên-hệ với thiện-pháp, được tu-tập sẽ mang lại hạnh-phúc vô-nhiễm, hạnh-phúc vô-nhiễm làm tâm hân-hoan thích-thú. Ðây là tác-dụng hổ-tương giữa hỷ và hạnh-phúc vô-nhiễm.

Một người thợ thiện xảo, y hân-hoan thích-thú trước một công trình sắp thực-hiện, sau khi hoàn tất, thấy công trình mình tạo ra hoàn hảo tốt đẹp, y lại hân-hoan thích-thú ngắm nhìn. Công trình hoàn hảo ví như hạnh-phúc vô-nhiễm.

Hân-hoan thích-thú trước khi thực-hiện là hỷ liên-hệ với thiện, sau khi hoàn thành-công trình là hỷ giác-chi . Hành-giả cần nhận-định rõ sự khác biệt giữa: thích-thú và hạnh-phúc vô-nhiễm. Thích-thú là trạng-thái vui của pīṭi, trạng-thái này có tính tạm bợ nhất thời, thoáng qua rồi mất. Còn hạnh-phúc vô-nhiễm có chỉ thật sự khi hành-giả chứng đạt quả Vô-lậu, ngoài ra nó cũng chỉ là tạm bợ, thoáng chốc đã mất.

Nhưng so với những hạnh-phúc tạm bợ khác thì chẳng có gì tốt hơn loại hạnh-phúc vô-nhiễm này. Ðã thấu hiểu bản chất giả tạm của loại hạnh-phúc vô-nhiễm này, khi nó mất đi, hành-giả cũng chẳng nên phiền-muộn, vì chẳng có lợi-ích chi cả. Trái lại, còn gây chướng-ngại cho hỷ giác-chi sanh-khởi, tốt nhất, nên tìm lại nó, rồi cố-gắng duy trì bằng sự tinh-tấn.

Có lần đức Phật đi vào xóm khất thực, do sự quấy phá của Ma-vương (Māra). Hôm ấy, Ngài chẳng được ai cúng dường chi cả. Ma-vương bạch hỏi Ngài có khó chịu vì đói bụng không? Ngài giải thích thái độ an-tịnh tâm của người thoát ra mọi chướng-ngại (kañcana) của tinh-thần, trạng-thái của người thoát ra mọi trói-buộc của tham-sân-si. Rồi Ngài thuyết lên kệ-ngôn:

Susukhaṃ vaṭa jīvāma
Yesaṃ no naṭṭhi kiñcanaṃ
Pīṭibhakkhā bhavissāma
Devā ābhassarā yaṭhā.

"Hạnh-phúc thay! Như-lai sống không chướng-ngại.
Dưỡng nuôi hỷ-lạc, Như-lai lúc nào cũng giống như vị trời ở cõi Quang-âm thiên
". (Pháp Cú 200)

Nhân sanh hỷ giác-chi

Ngoại-trừ tác-ý đúng, hỷ giác-chi được sanh-khởi và tăng-trưởng do mười một nhân khác là:

1- Tùy-niệm ân-đức Phật (buddhānussaṭi): là suy-gẫm về ân-đức Phật.

2- Tùy-niệm ân-đức Pháp (dhammānussaṭi): là suy quán về ân-đức Pháp.

3- Tùy-niệm ân-đức Tăng (saṅghānussaṭi): là quán-xét về ân-đức Tăng, tức là quán-xét về ân-đức bốn quả siêu-thế.

4- Tùy-niệm ân-đức Giới (sīlānussaṭi): là quán-xét về giới-hạnh mà mình đang thọ-trì, giới thọ-trì được thanh-tịnh, làm phát-sanh sự hoan-hỷ đối với giới, đồng thời nâng cao sự tự-tin, không kinh-sợ trong tâm của người hành-trì-giới thanh-nghiêm.

5- Tùy-niệm ân-đức Thí (cāgānussaṭi): là quán-xét hạnh bố-thí mà mình đã tạo, tức là sự hoan-hỷ phát-sanh từ hạnh bố-thí liên-hệ đến thí Thánh-tài (một trong bảy tài-sản của bậc Thánh), thí-sự ấy có ân-đức là cho an-tâm, không lo sợ nghèo khổ trong tương-lai.

6- Tùy-niệm ân-đức Thiên (devānussaṭi): là quán-xét đến pháp làm cho người trở thành chư-thiên, những pháp ấy đang có ở ta không? Những pháp ta đang có, những pháp ấy có phải chính là những pháp giúp chúng-sanh tốt đẹp trong nhàn-cảnh không? Tâm hành-giả sẽ hoan-hỷ khi thấy những pháp đưa về nhàn-cảnh đang có với mình.

7- Tùy-niệm Tịch-tịnh (upasamānusaṭi): là quán-xét về sự bất động của những ô-nhiễm, những ô-nhiễm đã yên-lặng do năng-lực thiền-định. Nghĩa là xác-chứng được sự an-tịnh tự-tại, có giá trị vượt qua năm trần-cảnh, không cần đến năm dục tăng-trưởng (pañca kāmaguṇā), cũng được an-vui.

8- Không thân-cận với người vô-tín. Người vô-tín là người không có đức-tin nơi Tam-bảo, thường có thái độ không cung-kỉnh trước những bảo-tháp thờ Xá-lợi, cội Bồ-đề, hay kim-thân Phật được tạo thờ.

9- Thân-cận bậc trí, nhất là bậc có đức-tin nơi Tam-bảo.

10- Suy-gẫm pháp-học, phân-tích rộng về những điều-học nơi kinh-sách, phát-sinh trí và đức-tin cùng sự hoan-hỷ với pháp.

11- Thiên về hỷ giác-chi trong mọi oai-nghi.

5- Tịnh giác-chi (passaddhi sambojjaṅga)

Chữ Passaddhi từ chữ Pa + ngữ căn Sambh , nghĩa là an-tịnh, đặc-tính của Passaddhi là làm dịu sự nóng bức do phiền-não dục (kilesadara vūpasam) gây ra. Passaddhi đối với tâm giống như bóng mát đối với người bị ánh-nắng mặt trời chiếu rọi.

Passaddhi là một sở-hữu đối trị với phóng-dật. Passaddhi có hai là: kāya passaddhi (tịnh-thân) và ciṭṭa passaddhi (tịnh-tâm). Kāya (thân) ở đây không có nghĩa là thể-xác, thân ở đây chỉ cho các sở-hữu, thành-phần của tâm. Nói cách khác, kāya chỉ cho thọ-uẩn, hành-uẩn (ngoại-trừ kāyapassaddhi) và tưởng-uẩn cùng có mặt với tâm.

Kāyapassaddhi (tịnh-thân) là trạng-thái an-tịnh của cácsở-hữu cùng hiện-hữu với tâm. Còn ciṭṭa passaddhi (tịnh-tâm) là trạng-thái an-tịnh của tâm.

Tịnh có thể ví như người đang bị nóng bức, được cơn mưa tưới xuống, trở nên mát-mẽ, thoải-mái, dễ chịu. Làm cho tâm an-tịnh là việc khó thực-hiện, tâm luôn luôn chao-động có khuynh-hướng không bao giờ ở yên một chỗ. Tâm ví như cá vớt ra khỏi mặt nước, ném trên mặt đất.

Vāriyo’va ṭhale khiṭṭo
Okamokaṭa ubhaṭo
Pariphandaṭi’ midaṃ ciṭṭaṃ
Māradheyyaṃ pahāṭave.

"Cá bị vớt lên khỏi nước và vứt trên đất khô như thế nào,
tâm dao-động cũng dường thế ấy.
Vậy phải cách xa cảnh giới của dục-vọng". (Pháp Cú 34)

Sở dĩ tâm không được an-tịnh là do có tham, sân, si ngự-trị, chính tham, sân, si làm cho tâm bất an. Nhưng tham, sân, si ngự-trị được tâm là do đâu? Do dục. Nói cách khác, tịnh có được là do xa lìa dục (vọng). Dục (vọng) được xa lìa khi hành-giả chứng được sơ-thiền, cho dù hành-giả có đạt đến cận-định, tâm tuy yên-lặng nhưng chưa an-tịnh hoàn toàn vì còn liên-hệ đến dục.

Cũng nên phân biệt dục-lạc và dục. Dục-lạc là những khoái-lạc do năm trần-cảnh mang lại, còn dục là những gì thuộc về năm trần-cảnh mà chúng-sanh muốn thụ-hưởng nó (kāma paribhuñjaṭi -paribhuñjaṭi là ăn uống). Ðược gọi là dục-vọng bởi vì những trần-cảnh có đặc-tướng vui ít nguy hại nhiều.

Ðức Phật có dạy rằng: "appassādā kāmā bahudukkhā, ādīnavo, eṭṭhabhiyyo - các dục (vọng) vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy-hiểm ở đây nhiều hơn". Và đức Phật có dạy rằng:

"Cho dù có chánh-kiến, thấy được nguy-hiểm của dục, nhưng chưa đắc được sơ-thiền, chưa thoát khỏi dục (vọng) chi phối.

Bao giờ chứng-đắc được sơ-thiền hay một pháp cao-thượng hơn, khi ấy mới khỏi bị dục (vọng) chi phối". (kinh Tiểu khổ-uẩn -Trung-bộ kinh).

Và sự-kiện các dục có vui ít khổ nhiều, được Ðức Thế-tôn trình-bày rộng-rãi trong bài kinh Ðại khổ-uẩn (mahādukkhakkhandha suṭṭa) ở Trung-bộ kinh. Tâm chỉ an-tịnh khi hành-giả trau dồi tư-tưởng xa lìa những ác bất-thiện pháp, đồng thời không nghĩ đến các trần-cảnh.

Chỉ có trau dồi tư-tưởng như thế, tâm mới trụ vững trong sự an-tịnh bằng các tầng thiền, ít nhất phải là sơ-định, khi ấy hành-giả mới có thể tu-tập và làm cho sung-mãn tịnh giác-chi.

Nếu hành-giả thiên về thiền Quán, khi đạt được tuệ Sinh-diệt, khi ấy hành-giả sẽ dễ-dàng tu-tập tịnh giác-chi. Hành-giả chuyên tu về Minh-sát, khi đạt đến tuệ Sinh-diệt thường phát-sanh một trong 10 phiền-não quán (kilesa vipassanā), trong đó có tịnh, pháp ấy là pháp tốt nhưng sở dĩ gọi là phiến-não, vì nó cản trở hành-giả tiến cao hơn, nếu như hành-giả bám chấp vào nó.

Lẽ thường, tâm an-tịnh không hề chấp-nhận một tư-tưởng xấu nào cả, nhiều người nghĩ rằng: "giải-thoát là tự-do không hạn-chế", để rồi sống buông-lung. Còn như tự rèn-luyện, tự khép-mình vào khuôn-khổ, kỷ-cương là bị trói-buộc, mất tự-do. Họ gọi những người sống tự chế-ngự là bị pháp trói chặc (pháp phược), bị giới trói chặc (giới phược), là những người có chấp-thủ (upādāna), chưa được giải-thoát...

Nhưng nếu hỏi những người ấy rằng: "bậc Thánh có phạm giới không? có làm điều ác không?" có bao giờ các Ngài có những hành-vi phi đạo-đức không? phi luân-lý không? Họ sẽ né tránh hoặc trả lời quanh co.

Giáo-lý của đức Phật được xem là là căn-bản của phạm-hạnh có năm điều:

1) Buddho so bhagavā bodhāya dhammaṃ deseṭi: đức Phật bậc giác-ngộ, thuyết-pháp đưa đến giác-ngộ.

2) Danṭo so bhagavā damaṭhādha dhammaṃ deseṭi: Thế-tôn vị đã điều-phục, thuyết-giảng pháp đưa đến điều-phục.

3) Sanṭo so bhagavā samaṭhāya dhammaṃ deseṭi: Thế-tôn bậc an-tịnh, thuyết-giảng pháp đưa đến an-tịnh.

4) Tinno so bhagavā ṭaraṇāya dhammaṃ deseṭi: Thế-tôn bậc đến bờ kia, thuyết-giảng pháp đưa đến bờ kia.

5) Parinibbuṭo so bhagavā parinibbānāya dhammaṃ deseṭi: Thế-tôn bậc tịnh-lạc, thuyết-giảng pháp đưa đến tịnh-lạc. (kinh Udumbarikā -sīhanāda, Trường-bộ kinh).

Trong năm điều căn-bản của Ðấng Ðại-giác, điều-phục (danṭo) được nói đến, tức là cái "tâm" phải được rèn-luyện cho đúng phương-pháp mới trở nên tốt đẹp, để rồi không còn có tự ngã.

An-tịnh lại là một điều khác của căn-bản phạm-hạnh, chỉ khi nào tâm được an-tịnh, khi ấy tâm mới được điều-phục.

Tâm được an-tịnh khi được uốn nắn trong vòng trật-tự, trong sự tiến-bộ chân-chánh, khi ấy tâm mới trở nên hữu-ích cho mình và cho người. Cái tâm náo-động, bất-chánh, hành-xử vô trật-tự đó mới chính là hiểm-họa cho mình lẫn cho người. Như thế, không nên gọi là "tâm bị trói-buộc bởi pháp, bởi giới-hạnh" được.

Giả sử rằng: Nếu tâm bị trói-buộc như thế mà đưa đến giác-ngộ, đưa đến tịnh-lạc thì tâm cũng nên bị trói-buộc, còn hơn tâm tự-do phóng túng để rồi rơi vào đọa lạc.

Thật ra, chính đức Phật dạy rằng: "Chánh-pháp còn phải bỏ huống chi là tà-pháp". (Tăng-chi kinh)

Trong bài kinh Raṭṭhavivāṭa suṭṭa (kinh Trạm-xe) trong Trung-bộ, Ngài Punna manṭānipuṭṭa đáp lời của trưởng-lão Sārīpuṭṭa rằng:

"Anupādā pari nibbānaṭṭhaṃ kho āvuso.
Bhagavaṭī brahmacariyaṃ vussaṭīṭi:

- Này hiền-giả! sống đời sống phạm-hạnh dưới sự chỉ dẫn của Ðức Thế-tôn với mục-đích không nắm giữ trước viên tịch (parinibbāna)".

Như vậy, tâm an-tịnh là giai đoạn tu tập, khi thành-đạt mục đích giải-thoát hoàn toàn, tâm tự nhiên không còn nắm giữ thiện hay bất thiện nữa.

Nhưng giữ được tâm an-tịnh trước những chướng-ngại quả là khó, chính cái đức-độ khó có được ấy, mới là điều đáng cho hành-giả tận-lực cố-gắng để thành-tựu.

Nhờ kiểm-soát, gìn-giữ tâm an-tịnh, hành-giả xây-dựng cho chính mình đức-tính dũng-mãnh, người có tâm an-tịnh sẽ không cảm thấy yếu-đuối, khiếp-nhược, phiền-lụy bởi Tám ngọn gió đời (aṭṭhaloka dhamma - bát phong) là:

- Ðược lợi (lābha) - mất lợi (alābha).
- Ðược danh (yasa) - mất danh (ayasa).
- Bị chê (nindā) - được khen (pasaṃsā).
- An lạc (sukha) - đau-khổ (dukkha).

Chúng ta tìm thấy những bài học an-tịnh trước những nghịch-cảnh trong những câu chuyện bổn-sanh như là: Ðức Bồ-tát có đứa con duy nhất, chẳng may bị rắn cắn chết ở ruộng cày, Ngài trầm-tĩnh nhờ người nhắn bảo nhà: hôm nay chỉ mang một phần cơm ra ruộng thôi. Người nhà hiểu ý Ngài, mẹ, con gái, người tớ của người chết đều ra ruộng, tất cả đều trầm-tĩnh thiêu xác chết.

Ngạc-nhiên, vua trời Ðế-thích giả dạng đến hỏi thăm: Vì sao họ không khóc trước cái chết của người thân yêu? Bà mẹ trả lời:

- "Không ai mời nó cũng đến, không ai xua đuổi nó cũng đi. Ðến thế nào, ra đi thế ấy, vậy than khóc rên rỉ có ích gì, khi nó chẳng còn biết chi".

Hoặc câu chuyện Bồ-tát Temiya, giả vờ câm, điếc, tê-liệt, chấp-thuận mọi thứ thử-thách của Hoàng-tộc, những thử-thách mà xét ra người không có dũng-khí sẽ bỏ cuộc ngay. Cuộc thử-thách đâu phải chỉ diễn ra một ngày, một tháng hay một năm, nó kéo dài suốt mười sáu năm dài. Bồ-tát chịu đựng sự thử-thách ấy, với mục-đích gì? Với mục-đích được xuất-gia, xa lánh các vương-quyền. Chỉ bấy nhiêu thôi.

Tâm an-tịnh là tâm không hề chao-động trước cảnh được mất, không bàng-hoàng trước nghịch-cảnh của đời sống, đó là lợi-ích khiêm-tốn của tâm an-tịnh. Tâm an-tịnh được hành-giả tu-tập làm sung-mãn sẽ đưa hành-giả giải-thoát ra mọi khổ-lụy, tuyệt-đỉnh là giải-thoát khỏi khổ luân-hồi. Tịnh giác-chi là pháp trợ giúp hành-giả vượt qua những khổ-não, cuối cùng đưa đến giải-thoát trọn vẹn.

Muốn tu-tập tịnh giác-chi, trước tiên phải an lập được tâm an-tịnh qua pháp thiền Chỉ hay Quán, hành-giả cần nỗ-lực tinh-cần đạt cho được sơ-định hoặc tuệ Sinh-diệt. Trong giai-đoạn đầu, hành-giả cần có tác-ý lìa bỏ dục (vọng), lìa bỏ những bất-thiện pháp.

Tiếp theo là trình-bày những nhân trợ sanh tịnh giác-chi. Có bảy điều làm sanh-khởi và tăng-trưởng tịnh giác-chi:

1) Thọ-dụng vật-thực tốt. Ở đây ý nói là những vật-thực còn đủ chất dinh-dưỡng, chưa bị hư thối, dùng vật-thực thích-hợp cơ thể, khiến phát-sanh dễ chịu, không rơi vào khó chịu, bực bội.

2) Thời-tiết thích-hợp. Là tìm trú-xứ có khí-hậu thích-hợp với cơ thể, loại khí-hậu dễ chịu.

3) Điều hòa bốn oai-nghi cho thích-hợp với hoàn cảnh và thời-tiết.

4) Giữ tâm quân-bình trước nghịch cảnh lẫn thuận cảnh.

5) Thân-cận với những người có tâm dung hòa, có tâm không kiêu-mạn, có tâm không cáu-kỉnh, không dùng vật gì để đáng đập, hành hạ kẻ khác.

6) Không thân-cận với người kiêu-mạn, náo-động, hung hăng

7) Có khuynh-hướng về sự tĩnh-lặng.

6- Ðịnh giác-chi (Samàdhi sambojjhaṅga).

Ðịnh là sở-hữu ekaggaṭā (Nhất-hành) nghĩa là an-trú vào một cảnh, tương-tự như niệm, tinh-tấn, tùy công-năng của nó trong lãnh-vực nào, nó mang tên theo lãnh-vực ấy, như định-quyền, định-lực, định giác-chi, chánh-định.

Ðịnh đi theo tuệ Minh-sát có tên gọi là Không-định là loại định an-trú vào tướng vô-ngã, Vô-tướng định là loại định an-trú vào tướng vô-thường, Vô-nguyện định là loại định an-trú vào tướng khổ.

Thông thường, Định là dùng để chỉ cho thiền Chỉ, là loại định trong tám tầng thiền: 4 tầng thiền hữu-sắc và 4 tầng thiền vô-sắc. Trong lãnh-vực này có ba loại định là:

1. Tiên -khởi định.
2. Cận -định.
3. An-chỉ định.

Tiên-khởi định là loại định thông-thường, trụ vào ấn-tướng ban đầu (còn có tên gọi là sát-na định -khaṇa samādhi). Cận-hành định là loại định già mạnh có được bốn chi-thiền là: tầm, tứ, hỷ, lạc. An-chỉ định là chỉ cho tám tầng thiền mà hành-giả chứng đạt được.

Tiên-khởi định và cận-hành định có thể gom vào cận-định. Ðiều-kiện giúp cho định sanh-khởi tốt đẹp là sự an-tịnh (passaddhi), chỉ có tâm an-tịnh mới dễ-dàng trụ trong đề mục thiền.

Tâm có an-tịnh và trụ mới thấy sự vật đúng theo chân-tướng, như nước yên-lặng không còn xao-động, hành-giả mới thấy rõ những gì ở đáy chén nước.

Ðịnh là trạng-thái ổn-định vững-chắc của tâm, ví như ngọn lửa không chao-động ở nơi không có gió. Khi tâm đã trú-vững trong đề mục thì không thể có những ngọn gió năm trần-dục được, nên đức Phật gọi trạng-thái sơ-thiền là: " Trạng-thái hỷ-lạc có tầm có tứ, do ly-dục, ly bất-thiện pháp sanh ". Trạng-thái nhị-thiền là: " Trạng-thái hỷ-lạc không tầm không tứ, do định sanh... ".

Nhưng đó không phải là định giác-chi, vì nó không hướng về giải-thoát, bao giờ định hướng về giác-ngộ đạo-quả, hướng về Níp-bàn giải-thoát khổ, khi ấy mới gọi là định giác-chi.

Trong kinh tạng có ghi câu chuyện: Trưởng-lão Sārīpuṭṭa theo lời thỉnh-cầu của ông Bà-la-môn lâm trọng-bệnh sắp mệnh-chung. Trưởng-lão Sārīpuṭṭa thuyết-giảng pháp thoại hướng dẫn Bà-la-môn ấy an-trú vào sơ-định trước khi lâm-chung. Sau khi mệnh-chung ông Bà-la-môn tái-sanh về cõi sơ-thiền là vị phạm-thiên. Nghe được câu chuyện, đức Phật rầy Ngài Sārīpuṭṭa: Vì sao chỉ an-trú vị ấy vào cảnh giới phạm-thiên, trong khi vị ấy có khả-năng chứng-đắc đạo-quả.

Dĩ nhiên, hành-giả muốn tu-tập định giác-chi, trước hết phải tu-tập định-nhập, tức là phải lìa bỏ trong tâm những bất-thiện pháp, không đắm-nhiễm trong dục. Không có bất-thiện pháp, đồng nghĩa là thiện-pháp, là làm bạn với thiện. Làm bạn với thiện là điều báo hiệu cho định giác-chi sanh-khởi và tăng-trưởng.

Ðiềm báo hiệu định tu-tập xuất hiện (tức sơ-định, nhị-định...) là giới thanh-tịnh. Hành-giả muốn trau dồi tâm định, phải có sự quyết tâm trau dồi giới-hạnh được tinh nghiêm, chính giới-hạnh nuôi dưỡng đời sống tâm linh ngày càng trong sáng như vỏ ốc xa-cừ được đánh bóng. Tâm được trau dồi sẽ tiêu trừ những khát-vọng, thanh-lọc những ô-nhiễm làm tâm trở nên tinh-khiết. Tâm không bị năm trần-cảnh làm loạn-động, đó là tâm định. Khi định được phát-triển cao độ, dầu ở trong hoàn cảnh trái nghịch nào cũng không làm nó lay động, nghiêng ngã.

Người thực-hành pháp thiền-định với nguyện vọng thành định giác-ngộ phải đương đầu với năm pháp chướng-ngại trong hai lãnh-vực: thiền-định và giác-ngộ. Năm pháp chướng-ngại đã được giải thích ở phần trước.

Ðối với những người muốn giải-thoát khổ, thì đắc thiền không phải là mục tiêu, mục tiêu cần nhắm đến là đạo-quả mà năm trần-cảnh là mối nguy hại không nhỏ. Cho dù hành-giả có đắc thiền, an-trú tâm vào định tướng chăng nữa, chỉ khinh suất dể-duôi chạy theo dục tất cả những gì tích lũy được chỉ còn là con số không.

Trong Chú giải Bổn-sanh, Bồ-tát của chúng ta có tên là Lohaṃsaka, là một đạo sĩ ở núi Tuyết-lãnh vùng Himalaya đã chứng-đắc được tám tầng thiền cùng với năm pháp thần-thông. Có lần, Ngài xuống núi tìm muối và dấm. Ðức-vua xứ Bārāṇasī hoan-hỷ với sắc tướng và đạo-hạnh của Ngài, cung-thỉnh Ngài ngự trú ở vườn ngự-uyển của đức-vua, chỉ vì dể-duôi, bị sắc đẹp của Hoàng-hậu cuốn hút. Thế là, Ngài phạm giới. tất cả tầng thiền và pháp thần-thông đều mất sạch, Ngài phải đi bộ về thảo-lư của mình trong vườn ngự-uyển. Về sau, Ngài nỗ-lực chứng-đắc lại những pháp thượng-nhân ấy, bay về núi rừng Tuyết-lãnh, sống luôn ở đó, không bao giờ bén mảng đến kinh-thành xa-hoa diễm-lệ nữa.

Câu chuyện về Devadaṭṭa cũng giúp chúng ta suy-gẫm về mối nguy-hiểm sống trong dục. Devadaṭṭa là vị tỳ-khưu trong Pháp-luật của đức Phật, ban đầu, vị ấy là bậc đạo-hạnh tốt đẹp, đến nỗi trưởng-lão Sārīpuṭṭa ca tụng ở trong thành Rājagaha (Vương-xá thành). Và Devadaṭṭa chứng-đắc năm pháp thần-thông phàm. Về sau, chỉ vì những lợi-dưỡng của trần-dục, Devadaṭṭa đã gây ra ác-nghiệp cho mình, cho cả người khác là vua Ajāṭasaṭṭu. Thế rồi, một tư-tưởng xuôi theo chiều dục-vọng là muốn lãnh-đạo tăng-chúng, ngay lập tức năm pháp thần-thông mất cùng lúc với ý nghĩ ấy, vì chạm phải đối-tượng không nên chạm đến là Tăng-chúng.

Có suy-gẫm những tác hại đầy nguy-hiểm của năm dục tăng-trưởng, chúng ta mới kinh-sợ trước năm dục-lạc và gìn-giữ tâm không đắm-nhiễm vào nó. Hành-giả đắc thiền, không còn tạo nghiệp bất-thiện, vì đã chế-ngự được năm pháp chướng-ngại. Tuy nhiên, những ô-nhiễm vẫn tiềm tàng sâu kín bên trong, chẳng khác gì những cây kim tẩm độc có thể làm chết người, được giấu dưới lớp chăn bông dày.

Biện-pháp an-toàn tối thiểu là phải làm sao có thể có được chất kháng-sinh không bị thiệt mạng, không bị khổ nếu chạm phải cây kim tẩm độc tính ấy. Biện-pháp an-toàn tối thiểu ấy là đạo-quả Dự-lưu, vị Thánh Dự-lưu không còn sợ-hãi đối với bốn khổ-cảnh. Trong đời sống thường nhật, các vị Thánh Dự-lưu vẫn tiếp chạm với năm dục trần như bà Visākhā, ông Anāṭhapiṇḍika, vua Bimbisāra... nhưng các vị ấy được an-toàn trước bốn khổ-cảnh.

Như thế, chúng ta thấy rằng: môi trường thiếu vắng hay không có dục-lạc là môi trường tốt đẹp giúp cho định chưa sanh được sanh-khởi, định đã sanh-khởi được tăng-trưởng.

Một sinh-viên chuyên cần học tập, chăm chú vào sách vở, rút vào nơi yên-tĩnh, cắt đứt liên lạc với mọi yếu tố chao-động bên ngoài, tự "trói-buộc" vào không gian thuận lợi trong việc học tập, người sinh-viên này sẽ thành-công trong kỳ thi tốt nghiệp. Cũng vậy, hành-giả tự rút mình vào tịnh-thất hay một nơi yên tĩnh nào đó, xa lánh những cuộc vui điên rồ, những tranh chấp tệ hại giữa những người đang quây quần trong dục-lạc, chú tâm vào thiền tịnh, chiến đấu không hề mệt mỏi với năm pháp chướng-ngại.

Từ đó, nhờ năng-lực của tâm định, hướng tâm quán-xét để thấu đạt những trạng-thái cao siêu mà đức Phật gọi là trạng-thái của bậc Thánh. Chính vì thế, đức Thế-tôn thường khuyên nhắc chư tỳ-khưu:

Idha bhikkhave! bhikkhu araññagaṭo vā rukkhamūlagaṭo vā suññagāragaṭo...".

"Ở đây, này các tỳ-khưu! vị tỳ-khưu đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến nơi thanh vắng không nhà.
"Ở đâu có định ở đó có tuệ. Ở đâu có tuệ ở đó có định". (Tăng-chi kinh)

Ðịnh ở đây là định an-trụ vào vô-thường tướng, vào khổ-tướng, vào vô-ngã tướng.
Tuệ ở đây là tuệ Minh-sát được già mạnh.

Bấy giờ, hành-giả khảy mỏ, phá vỡ cái trứng vô-minh, để mở tung cảnh an-lạc trong lành siêu-thế.

Một câu hỏi được Ngài Sārīpuṭṭa nêu lên, được ghi lại trong bài kinh Mahā gosiṅga suṭṭa (Ngưu giác-lâm đại-kinh) ở Trung-bộ là: "Hạng tỳ-khưu nào có thể làm chói sáng khu rừng Gosiṅga?".

Lần lượt các vị thánh như Ngài Ānanda, Revaṭa, Anuruddha, Mahā kassapa, Moggallāna, Sārīpuṭṭa trình-bày sở đắc của mình, có thể làm chói sáng rừng Gosiṅga. Và Ðức Thế-tôn tán thán tất cả đều khéo nói, rồi Ngài dạy rằng:

"Này Sārīpuṭṭa! vị tỳ-khưu sau khi trì bình khất thực về, sau bữa ăn. ngồi kiết già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt với ý nghĩ rằng: "Ta sẽ không từ bỏ tư thế này, cho đến khi tâm của ta được khéo giải-thoát các lậu-hoặc"".

"Này Sārīpuṭṭa! hạng tỳ-khưu này có thể làm chói sáng khu rừng Gosiṅga".

Thật tuyệt vời, thật ý nhị, đầy cảm hứng với lời dạy đơn giản đầy tính thiết-thực của Ðức Thế-tôn. Hạng phàm-nhân như chúng ta cũng có thể làm chiếu sáng khu rừng, với điều-kiện nỗ-lực thực-hành những lời dạy của Ðức Thế-tôn.

Một vị thiên nhân bạch hỏi Ðức Thế-tôn rằng:

"Nội triền và ngoại triền
Chúng-sanh bị triền-phược
Con hỏi Goṭama!
Ai thoát khỏi triền này".

Ðức Thế-tôn đáp rằng:

"Người có trí trú giới
Tu-tập tâm và tuệ
Nhiệt-tâm và thận-trọng
Vị tỷ kheo thoát triền..."
. (Tương-ưng kinh)

Và Ngài Buddhaghosa dùng kệ-ngôn này mở đầu cho bộ sách Thanh-tịnh-đạo của Ngài.

Triền (sañyojana) là pháp trói-buộc chúng-sanh vào khổ luân-hồi. Tóm lại, định giác-chi là loại định đi chung với tuệ Minh-sát, an-trụ vào ba tướng giải-thoát là Không-tướng, Vô-tướng và Vô-nguyện tướng.

Nguyên-nhân trợ sanh là làm tăng-trưởng định giác-chi có 11 điều là:

1) Có sự sạch sẽ thân thể cùng vật-dụng.

2) Ðiều hòa quân-bình năm Quyền.

3) Biết rành ấn-tướng của đề mục tức là: biết ấn-tướng nào cần giữ, ấn-tướng nào cần phải từ bỏ.

4) Biết phương-pháp làm tâm tăng-thượng, là tâm đang lui sụt do nhân nào, thì chấm dứt được nhân ấy, khiến tâm trở nên hưng-phấn, hân-hoan. Phương-pháp này cần vận dụng đến ba giác-chi là: trạch-pháp giác-chi, tấn giác-chi và hỷ giác-chi.

5) Biết cách kềm giữ tâm không cho tán-loạn (phóng-dật) do tinh-cần quá độ chẳng hạn... phương cách này cần vận dụng ba giác-chi là: tịnh giác-chi, xả giác-chi và định giác-chi làm cho ba pháp ấy sanh-khởi.

6) Biết cách làm cho tâm hân-hoan khi tâm khô héo, sở dĩ tâm rơi vào thụ-động là do ít vận dụng trí hay không nhận được sự an-vui, do thiếu pháp hỷ làm tâm tươi nhuận. Hoặc giả tâm khô khan là do sự vắng-lặng các Quyền như tín, tấn, niệm, tuệ. Khi tâm rơi vào trạng-thái buồn vơ vẫn, man-mác, do quán-xét về tám nỗi khổ: sanh, lão, bệnh, tử và bốn khổ-cảnh trong quá-khứ lẫn hiện-tại, rồi liên tưởng đến vị-lai. Cần phải đình chỉ nỗi buồn ấy, nên làm cho tâm hân-hoan bằng cách suy niệm về ba ân-đức: Phật-Pháp-Tăng giúp trợ sanh pháp hỷ, đem lại sự thích-thú hân-hoan cho tâm.

Không tham việc đã qua
Không mong việc sắp tới
Sống ngay trong hiện-tại
Do vậy, sắc thù diệu.

Do mong việc sắp tới
Do tham việc đã qua
Nên kẻ ngu héo mòn
Như lá xanh rời cành. (Tương-ưng kinh)

7) Quân-bình tâm, là làm cho tâm không bị co rút bởi hôn-trầm thụy-miên, cũng không loạn-động bởi phóng-dật, cần có sự điều-hòa năm quyền ngang nhau.

Hành-giả cần giữ thái độ an-nhiên như người đánh xe để mặc cho hai con ngựa kéo xe đang chạy đều.

8) Không thân-cận người có tâm vọng động, ám chỉ những người chưa đạt được cận-định hay kiên-cố định.

9) Thân-cận người có tâm trí vững trong định, là người đạt được cận-định hay nhập-định.

10) Quán-xét về thiền và giải-thoát, là dùng trí xem xét lại từng chi-thiền, để xác định sự chứng-đắc thiền của mình.

11) Tác-ý đến sự tu-tập định giác-chi trong mọi oai-nghi.

7- Xả giác-chi (Upekkhā sambojjhaṅga).

Upekkhā ở đây đồng nghĩa với ṭaṭra majjhaṭṭaṭā . Ðặc-tính của upekkhā là xem đối-tượng một cách vô-tư, không thiên-lệch, ví như người đánh xe khéo điều khiển cặp ngựa song hành luôn đi ngang hàng nhau.

Xả là trạng-thái quân-bình tâm, không phải là sự lãnh-đạm dững dưng. Trạng-thái tâm quân-bình là kết quả từ tâm định tĩnh.

Lẽ thường, phàm-nhân khó tránh khỏi chao-động khi phải va chạm thường xuyên vào những cảnh thăng-trầm của cuộc sống. Người trau dồi đức tánh xả này, sẽ không cảm thấy phiền-lụy nhiều trước những cảnh thăng-trầm của cuộc đời, bình thản trước cảnh được hay mất của thế-gian.

Nhiều người không chịu đựng nỗi trước những hạnh-phúc bất ngờ xảy đến khiến phải ngất lịm, cũng như vật-vả khóc than, phiền-muộn khi tài-sản vật-chất bất ngờ "đội nón ra đi". Thậm chí, một lời hứa hảo-huyền về lợi-đắc cũng làm cho họ ôm ấp hy-vọng, khi lời hứa ấy theo gió đi xa, họ lại sầu-khổ, ta-thán. Họ sầu-khổ vì mất món lợi tưởng-tượng, một lợi-lộc xét ra không do họ tạo ra, họ mất cái chưa có trong tay, thế mà họ còn phiền-muộn thì nói gì đến những tài-sản họ có được. Nếu mất những cái họ có trong tay, họ có cảm giác "Chết đi được". Một lời khen xã-giao gọi là, mang đến vui mừng hớn hở cho họ, một lời vô-tình chê trách, họ ôm trong lòng nổi hận-thù truyền-kiếp.

Tất cả những điều ấy, nói lên trạng-thái tâm không được quân-bình.

Trái lại, người có trau dồi tâm quân-bình, sẽ có cái nhìn vô-tư, thản-nhiên trước những biến chuyển của thế-gian, trầm-tĩnh trước những lời khen ngợi, tự-tại trong sự dè bỉu chê bai (nếu sự chê trách ấy không đúng và có ác ý). Ðó là người làm chủ được mình, làm chủ được tâm.

"Selo yaṭhā ekaghano
Vāṭena na samīraṭi
Evaṃ nindāpasaṃsāsu
Na samiñjanṭi paṇḍiṭā
.

Như tảng đá vững-chắc,
không rung chuyển trước gió.
Dường thế ấy, bậc thiện-trí không bị lời tán dương hay chê trách làm chao-động
". (Pháp Cú 81)

Trong Bodhi cariyāvaṭāra, ngài Sanṭideva có viết như sau:

"Khi được ca tụng sẽ có người oán ghét ta. Như vậy, tại sao ta lại thoả thích?.
Khi bị khiển trách, cũng có người khen tặng ta. Như vậy tại sao ta lại than vãn?
".

Người tự chủ, luôn có nụ cười trên môi, xa lìa gương mặt cau có. Sẵn sàng đón tiếp khách lạ, cùng quen và chia sẻ những gì mình có. "Chân lý ấy là người bạn đáng tôn vinh". Có người bảo rằng: "Chỉ có Thánh nhân mới có thái độ trầm-tĩnh quân-bình tâm như thế". Ðúng vậy, đó là cái nhìn của bậc Thánh đối với cuộc đời, các ngài nhìn thế-gian này như nhìn ảo ảnh, như nhìn bọt nước, các ngài đã xa lìa dục-vọng.

Yaṭhā bubbulakaṃ passe
Yaṭhā passe marīcikaṃ
Evaṃ lokaṃ avekkhanṭaṃ
Maccurājā na passaṭi.

"Như ta nhìn bọt nước, như ta nhìn ảo ảnh.
Nếu ngươ øi kia nhìn thế-gian này như vậy.
Tử thần không còn tìm thấy người ấy nữa". (Pháp Cú :170)

Nhưng bậc Thánh từ đâu mà có? Từ sự tinh-cần tu-tập, rèn-luyện tâm, bậc Thánh có được là do từ phàm-phu, các Ngài đã đào bới, bứng đi những ô-nhiễm cấu uế ở trong tâm, không còn đắm say trong hảo-huyền giả tạm của thế-gian, các ngài xem danh-sắc này như mây nổi, như gió thổi, như giấc chiêm bao.

Các ngài cũng từ phàm-nhân, cố-gắng nỗ-lực điều-phục tâm, để rồi trở thành bậc vô-nhiễm trước mọi hệ lụy cuộc đời.

Thế thì, vì sao ta lại không theo gương các ngài nhỉ? Vì sao ta lại khước từ địa vị "bậc Thánh" mà xét ra ta có thể nhận được? Hãy lên đường, nếu ta muốn trở thành bậc cao quí như các ngài. Hành-giả cũng nên ghi nhận: thái độ thản-nhiên trước những biến-động, không phải là sự lãnh-đạm, thờ ơ mà là một thái độ khách-quan không thiên-lệch. đức Phật có dạy rằng:

"Sukhena phuṭṭhā aṭhavā dukhena
Na uccāvacaṃ paṇḍiṭā dassayanṭi".

Dù hạnh-phúc hay đau-khổ,
bậc thiện-trí không bồng bột
cũng không để tinh-thần suy sụp
. (Pháp cú 83)

Thái độ khách-quan là cái nhìn có trí-tuệ, có suy-nghiệm, đồng thời chấp-nhận: Ðó là sự-thật không thể khác được, là định-luật không thể biến cải được.

Ðịnh-luật gì? -Ðịnh-luật vô thường. Sự-thật gì? -Sự-thật khổ-lụy. Cái gì vô thường? Cái gì khổ-lụy? - Ðó là thế-gian. Thế-gian được cấu tạo bởi những gì? -Bởi danh-sắc.

Vậy thì, khóc than, vật-vả có ích gì, có làm thay đổi được khổ-lụy đâu, đồng thời làm sao có thể thích-thú hân-hoan với sự khổ chứ. Tốt nhất, chọn thái độ thản-nhiên, trầm-tĩnh.

Ko nu hāso kimānando
Niccaṃ pajjaliṭe saṭi
Andhakārena onaddhā
Padīpaṃ na gavessaṭha
.

"Thích-thú vui cười là gì, hoan-hỷ khoái-lạc là gì,
khi thế-gian không dứt bừng cháy, bị bao trùm trong đêm tối.
Sao không đi tìm ánh sáng?
". (Pháp cú 146)

Danh-sắc này là một gánh nặng khổ-não, chí đến bậc Thánh A-la-hán đã tận diệt mọi ô-nhiễm trong tâm, nhưng khi nghĩ đến danh-sắc sinh diệt không ngừng nghĩ này, các Ngài cảm thán rằng: "Ôi! gánh nặng danh-sắc, ta còn phải mang ngươi cho đến bao giờ nữa đây?". Cho đến bao giờ các Ngài viên tịch, bấy giờ toàn bộ các gánh nặng đều trút xuống: không còn phiền-não, không còn năm uẩn, không còn pháp-hành.

Thái độ trầm-tĩnh, có phải là tiêu cực, bi quan yếm thế không?- Không, chấp-nhận nó là sự khổ, nhưng không chấp-nhận bị giam hãm trong lao tù khổ-não mà tìm cách vượt ra khỏi khổ. Ðó là thái độ tích cực tiềm-ẩn trong sự trầm-tĩnh. Ðức Phật gọi đó là xả giác-chi.

Liên-hệ giữa xả giác-chi và giới, chính là chất say, men rượu, rượu và chất say làm mờ lý trí, đồng thời tác động đến tâm, khiến tâm không thể trầm-tĩnh được.

Có người hỏi rằng: Vì sao được gọi là bậc Thánh?

"Ngoại-trừ lãnh-vực chứng-đắc, diệt trừ ô-nhiễm chỉ có Ngài, ngang bằng Ngài hoặc cao hơn Ngài biết được mà thôi. Còn trong lãnh-vực ứng xử với thế-gian, các Ngài hoan-hỷ trong những hoàn cảnh khó hoan-hỷ, nhẫn nại trước những điều khó nhẫn nại, các ngài im lặng trong khi muốn nói, mang lợi-ích đến cho đời, trong khi Ngài chẵng cần thiết đến lợi-ích ấy lắm.

Chỉ thế thôi! Thật giản dị nhưng khó thực hành.

Ðức Phật vì lòng bi mẫn tế độ hai ông bà Bà-la-môn Māgandiya, giúp hai ông bà chứng-đắc quả A-na-hàm, lời thuyết-giảng về bản chất thể trược làm phật ý cô Māgandiyā con gái của ông.

Khi được làm Hoàng-hậu của vua Udena, Hoàng-hậu Māgandiyā thuê bọn côn đồ mắng chữi đức Thế-tôn tàn tệ, đến nỗi Ngài Ānanda là bậc Thánh Dự-lưu chịu không nỗi (vì lòng thương kính đức Thế-tôn).

Trong khi ấy, đức Thế-tôn vẫn im lặng chịu đựng, Ngài Ānanda bạch rằng:

- Bạch Thế-tôn! Dân chúng ở đây mắng nhiếc đức Thế-tôn quá lẽ. Bạch Thế-tôn, xin Thế-tôn hãy đi nơi khác.

- Này Ānanda! Ðến xứ khác họ cũng mắng chữi nữa thì sao?

- Bạch Thế-tôn! Thế-tôn sẽ ngự đến nơi khác nữa.

- Này Ānanda! Ðó không phải là cách tốt, này Ānanda! Nhân sanh nơi nào hãy diệt nơi ấy.

Rồi Ngài nói lên kệ-ngôn:

Ahaṃ nāgo’ va saṅgāme
Cāpāṭo paṭiṭaṃ saraṃ
Aṭivākyaṃ ṭiṭikkhissaṃ
Dussīlo hi bahujjano.

"Như voi chiến ở trận địa,
hứng lãnh lằn tên mũi đạn.
Cùng thế ấy, Như-lai sẽ chịu đựng lời nguyền rủa.
Ðúng vậy, phần đông sống không giới-luật". (Pháp-cú 320)

Có người không hoan-hỷ với trưởng lão Sārīpuṭṭa, nhân lúc Ngài đi trì bình khất thực, y từ sau đánh vào người Ngài, Ngài hỏi rằng: "cái chi vậy, cái chi vậy?". Những tín-đồ thấy Ngài vô cớ bị đánh đập, xông đến định đánh người kia, trưởng lão Sārīpuṭṭa dùng thân mình che chắn cho y khỏi bị đánh, Ngài hỏi rằng:

- Các ngươi định làm gì người này?.

- Bạch Ngài! Chúng tôi sẽ đánh nó, vì nó vô cớ đánh Ngài.

- Người này đánh ta hay đánh các người?.

- Bạch Ngài! Nó đánh Ngài.

- Vậy thì các người hãy đi đi, đừng làm tổn hại đến người khác, trong khi người ấy không gây tổn hại đến các ngươi.

Và đám đông giải tán theo lời dạy của Ngài.

Câu chuyện bổn-sanh về đạo sĩ Jampūjīvaka, tiền thân là vị tỳ-khưu trụ trì ở một tự viện, do tâm sợ tổn thất lợi-đắc đã mắng chữi vị Thánh A-la-hán rằng:

"Ông không nên mặc y của tín thí dâng cúng, chỉ nên lõa-thể, không nên cạo tóc bằng dao cạo, nên cạo tóc bằng lá thốt nốt, không nên dùng vật-thực thượng vị, chỉ nên dùng phẩn làm vật-thực".

Vị Thánh A-la-hán suy nghĩ: "Người này đang bị ác dục xâm chiếm, nếu ta còn lưu trú ở đây, y sẽ tạo nhiều ác trọng-nghiệp, vậy ta hãy ra đi". Thế rồi, Ngài cầm y bát, lặng lẽ ra đi, không nói một câu.

Trong Milindapañhā (Mi-tiên vấn đáp) có ghi: Ngài Rohana trú ở xứ Kaṭaṇgara, thường xuyên đi khất thực trước nhà ông Bà-la-môn Sonuṭṭara, trọn bảy năm mười tháng, với mục-đích tế độ đồng tử Nāgasena. Suốt thời gian ấy, Ngài không nhận được vật gì, ngoài những lời thô kệch như chữi mắng... Cuối cùng Ngài cũng thành-tựu mục-đích là tế độ được đồng tử Nāgasena.

Còn rất nhiều và rất nhiều hình ảnh cao quí như thế xuyên qua kinh-điển và chú giải.

Như trong Trung-bộ kinh, bài kinh Puṇṇavāda suṭṭa (kinh Giáo-giới Phú-lâu-na), nói lên đức điềm tĩnh và nhẫn nại của Ngài Puṇṇa. Nếu hỏi giữa hội-chúng đông đảo rằng:

"Quí vị có làm được như các Ngài không?".

Phần đông sẽ lắc đầu, đáp rằng: "Khó làm lắm, khó làm lắm".

Có người sẽ trả lời rằng: "Chỉ có bậc Thánh mới làm được như vậy".

- Vâng! Ðúng thế, có làm được như vậy mới tiến gần đến bậc Thánh.

Nhưng xét cho cùng: mọi người có thể làm được chỉ với điều-kiện: "Có sự kiên-trì nhẫn nại với cái tâm trầm-tĩnh". Ðiều này không vượt quá khả-năng con người. Kinh-điển ghi nhận: có bốn con đường dẫn dắt chúng-sanh rơi vào đọa lạc là:

- Con đường tham-ái.
- Con đường sân-hận.
- Con đường sợ-hãi, nhu-nhược (bhaya).
- Con đường lầm-lạc si-mê.

Người nào đi trên một hay cả bốn con đường ấy, sẽ tạo nghiệp bất-thiện. Nhưng người nhờ trau dồi đức-tính trầm-tĩnh (upek-khā), luôn xa lánh những con đường ấy. Với sự tinh-khiết quân-bình tâm, người ấy nhìn rõ ràng sự vật, do không bị thiên-lệch vì cảm tính chấp trước, sẽ nhìn thấy diễn tiến của pháp-hành một cách vô-tư.

Hành-giả tu-tập tập xả giác-chi, nên quán-xét về nghiệp-báo, đó là nhân gần để nuôi dưỡng sự xa lìa bất-thiện nghiệp, đồng thời suy-gẫm về nghiệp quả của mình đã tạo, tất cả những vui, buồn, hạnh-phúc, đau-khổ ... đều là nhân, là quả cả. Biết được vậy rồi, hành-giả nhủ tâm rằng: "đó là nhân-quả, đó là nghiệp-báo, có chi đâu mà phải bận tâm".

Dần dần hành-giả phát hiện ra ân-đức cao quiù của sự điềm-tĩnh. Nhân trợ sanh xả giác-chi

Có năm nhân trợ sanh và làm tăng-trưởng xả giác-chi là:

1) Bình thường với tất cả chúng-sanh, là giữ thái độ ôn-hòa, không tranh hơn thua, không thương, không ghét với mọi người, mọi giới.
2) Thản-nhiên với sự vận chuyển của pháp-hành.
3) Không thân-cận với người có tính bảo-thủ, là người có tính nắm giữ thương, ghét với mọi người mọi giới.
4) Thân-cận với người trung lập.
5) Chú tâm thiên về, hướng về xả giác-chi.

Ðối với hành-giả thiền Chỉ, xả giác-chi hiện rõ khi chứng-đắc tam thiền, một trạng-thái an lạc, bậc Thánh gọi là xả-niệm lạc-trú (upekkhaṭo saṭimā sukkha vihāri). Ðối với hành-giả thiền Quán, xả giác-chi hiện rõ khi chứng-đắc tuệ Hành-xả. Còn những giai-đoạn khác, xả giác-chi đang tu-tập và dần dần tăng-trưởng.