Kinh Tập

Sutta Nipata

-ooOoo-

Mục Lục

Giới thiệu

Chương Một - Phẩm Rắn (Uragavagga)

1. Kinh Rắn
2. Dhaniya
3. Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng
4. Kinh Kasibbàradvàja, Người Cày Ruộng
5. Kinh Cunda
6. Kinh Bại Vong
7. Kinh Kẻ Bần Tiện
8. Kinh Từ Bi
9. Kinh Hemavata
10. Kinh Alavaka
11. Kinh Kinh Thắng Trận
12. Kinh Vị ẩn sĩ

Chương Hai - Tiểu Phẩm

1. Kinh Châu Báu
2. Kinh Hôi Thối
3. Kinh Xấu Hổ
4. Kinh Ðiềm Lành Lớn
5. Kinh Sùciloma
6. Kinh Hành Chánh Pháp
7. Kinh Pháp Bà La Môn
8. Kinh Chiếc Thuyền
9. Kinh Thế Nào Là Giới
10. Kinh Ðứng Dậy
11. Kinh Ràhula
12. Vangiụsa
13. Kinh Chánh Xuất Gia
14. Kinh Dhammika

Chương Ba - Ðại Phẩm

1. Kinh Xuất Gia
2. Kinh Tinh Cần
3. Kinh Khéo Thuyết
4. Kinh Sundarika Bhàradvàja
5. Kinh Màgha
6. Kinh Sabhiya
7. Kinh Sela
8. Kinh Mũi Tên
9. Kinh Vàsettha
10. Kinh Kokàliya
11. Kinh Nàlaka
12. Kinh Hai Pháp Tùy Quán

Chương Bốn - Phẩm Tám

1. Kinh Về Dục
2. Kinh Hang Ðộng Tám Kệ
3. Kinh Sân Hận Tám Kệ
4. Kinh Thanh Tịnh Tám Kệ
5. Kinh Tối Thắng Tám Kệ
6. Kinh Gìa Tám Kệ
7. Kinh Tissametteyya
8. Kinh Pasùra
9. Kinh Màgandiya
10. Kinh Trước Khi Bị Hủy Hoại
11. Kinh Tranh Luận
12. Sự Tập Hợp Nhỏ Bé
13. Những Vấn Ðề To Lớn
14. Kinh Tuvataka
15. Kinh Chấp Trượng
16. Kinh Sàriputta

Chương Năm - Trên Ðường Ðến Bờ Bên Kia

1. Bài Kệ Mở Ðầu
2. Câu Hỏi Của Thanh Niên Ajita
3. Câu Hỏi Của Thanh Niên Tissametteyya
4. Câu Hỏi Của Thanh Niên Punnaka
5. Câu Hỏi Của Thanh Niên Mettagù
6. Câu Hỏi Của Thanh Niên Dhotaka
7. Câu Hỏi Của Thanh Niên Upasiụva
8. Câu Hỏi Của Thanh Niên Nanda
9. Câu Hỏi Của Thanh Niên Hemaka
10. Cau Hỏi Của Thanh Niên Todeyya
11. Câu Hỏi Của Thanh Niên Kappa
12. Câu Hỏi Của Thanh Niên Jatukanniụ
13. Câu Hỏi Của ThanhNiên Bhadràvudha
14. Câu Hỏi Của Thanh Niên Udaya
15. Câu Hỏi Của Thanh Niên Posàla
16. Câu Hỏi Của Thanh Niên Magharàja
17. Câu Hỏi Của Thanh Niên Pingiya
18. Kết Luận

 

Giới Thiệu Kinh Tập (Sutta Nipata)

Hoà thượng Thích Minh Châu

Tập Sutta Nipatà là kinh thứ 5, trong 15 kinh thuộc Bộ Khuddaka Nipàta tức là Tiểu Bộ Kinh. Bộ Tiểu Bộ Kinh gồm có 15 kinh:

Khuddakapàtha (Tiểu Tụng Kinh),
Dhammapada (Pháp Cú),
Udàna (Phật Tự Thuyết Kinh, Cảm Hứng Ngữ),
Itivuttaka (Như Thị Ngữ Kinh, Phật Thuyết Như Vậy),
Vimànavatthu (Thiên Cung Sự Kinh),
Petavatthu (Ngạ Quỷ Sự Kinh),
Theragàthà (Trưởng Lão Tăng Kệ),
Therigàthà (Trưởng Lão Ni Kệ),
Jàtaka (Bổn Sanh),
Mahàniddesa (Ðại Nghĩa Tích),
Cùlaniddesa (Tiểu Nghĩa Tích),
Patisambhidàmagga (Vô Ngại Giải Ðạo),
Apadàna (Thí Dụ Kinh),
Buddhavamsa (Phật Sử) và
Cariyàpitaka (Tiểu Nghĩa Kinh, Sở Hạnh Tạng).

Theo một phân loại khác, Luật Tạng, Luận Tạng và tất cả kinh chưa được sưu tập vào 4 Bộ Nikàyà chính, lập thành Tiểu Bộ Kinh. Các vị thọ trì Trường Bộ Kinh không chấp nhận các kinh Khuddakapàtha, Cariyàpitaka và Apadàna, và phân loại các kinh khác vào Luận Tạng. Các vị thọ trì Trung Bộ Kinh không chấp nhận tập Khuddakapàtha, nhưng chấp nhận các kinh còn lại và phân loại chúng vào Kinh tạng. Theo truyền thống Miến Ðiện, 4 tập khác được cộng thêm vào, như Milindapanha, Suttasamgaha, Petakopadesa và Nettipakarana.

Kinh Tập này gồm có 5 Chương:

Chương I, Phẩm Rắn (Uragavagga) gồm có 12 kinh;
Chương II, Tiểu Phẩm gồm có 14 kinh.
Chương III, Ðại Phẩm gồm có 12 kinh;
Chương IV, Phẩm Tám gồm có 16 kinh; và
Chương V, PhẩmTrên Con Ðường Ðến Bờ Bên Kia, gồm có 17 kinh tất cả.

Tổng cộng kinh này có 5 Chương và 71 bài kinh.

*

Ðặc biệt của tập này gồm những kinh có thể được xem là những kinh xưa nhất, cổ nhất, nghĩa là gần với thời đức Phật nhất. Chúng tôi dựa trên một số yếu tố để xác nhận tánh chất thật sự nguyên thủy của Bộ Suttànipàta này, về cả hai mặt Văn cú và Nội dung.

Trước hết, Tập Suttanipàta viết bằng một thể văn Pàli xưa nhất và cổ kính nhất, so sánh với các thể văn chúng ta thường được gặp trong các Bộ Dìgha Nikàya (Trường Bộ), Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Samyutta Nikàya (Tương Ưng Bộ), Anguttara Nikàya (Tăng Chi Bộ). Nhiều thể văn gần với văn Vedà (Vệ Ðà) được tìm thấy rất nhiều trong tập này, nhưng không tìm thấy trong các tập khác, như các danh từ và động từ số nhiều: sitàse, upatthitàse, caramàse. Các hình thức chủ cách số nhiều và sử dụng cách số ít của một số danh từ như: vinicchayà thế cho vinicchayàni, lakkhanà thế cho lakkhanàni, mantà thế cho mantàya. Ngoài ra, chúng ta thường gặp các nguyên mẫu Vedà như vippahàtane, sampayàtave, unnametave rất ít khi được tìm thấy trong các tập kinh khác. Nhiều khi chúng ta thấy một số danh từ đặc biệt như chữ datthu thế cho disvà, atisìtvà thế cho atikkamivà, maga thế cho miga, tumo thế cho so v.v... Những danh từ này rất gần với tiếng Vệ đà không tìm thấy ở các bộ kinh khác. Như vậy, chứng tỏ Tập Suttanipàta được viết trong thời kỳ xưa nhất của ngôn ngữ Pàli, chưa được trau chuốt lưu loát, nhiều âm điệu như ngôn ngữ Pàli sau này. Giá trị cổ kính của ngôn ngữ Pàli trong tập này đánh giá tánh chất nguyên thủy của tập Suttanipàta.

Một yếu tố nữa giúp chúng ta biết giá trị cổ kính của tập này là một số kinh của tập này được tìm thấy trong các bộ kinh khác, và chứng tỏ các kinh khác đã sưu tầm một số kinh hiện có trong bộ Suttanipàta. Ví dụ kinh Seta (Sn. 548-573) được tìm thấy trong Majjhima Nikàya M.i. 146; kinh Vàsettha (Sn. 594-656) được tìm thấy cũng trong Majjhima Nikàya M.ii. 196.

*

Ngoài ra, tập Suttanipàta có ghi chép lại một vài giai đoạn trong đời sống tìm đạo và học đạo của Thái tử, những mẫu chuyện này rất giản dị và mộc mạc, không có xen lẫn thần thông phù phép với những hình ảnh thật đơn sơ và tươi đẹp.

Kinh Xuất gia (Sn. 405-424) diễn tả cuộc gặp gỡ giữa Thái tử với Vua Bimbisàra, khi Thái tử vừa mới xuất gia. Vua Bimbisàra đứng trên lầu nhìn xuống thấy Thái tử đang đi khất thực.

"Bình Sa Vương thấy Ngài,Ðứng trên sân lầu thượngThấy đầy đủ tướng tốt,Bèn nói lên lời này." (409)

Sau khi sai sứ giả đi theo để tìm chỗ Thái tử, Vua Bimbisàra liền đi đến gặp Thái tử và thưa:

"Ngài thanh niên tuổi trẻ,Ngây thơ, bước vào đời,Cao đẹp được viên mãn,Thiện sanh giòng Sát lỵ...Tài sản ta cho ngươi.Hãy hưởng và trả lời." (420-421)

Và Thái tử dứt khoát trả lời :

"Giòng họ thuộc mặt trờiSanh tộc là Thích Ca,Từ bỏ gia tộc ấy,Thưa vua Ta xuất gia.Ta không có thiết tha,Ðối với các loại dục,Thấy nguy hiểm trong dục,Bỏ chúng, là an ổn;Ta sẽ đi, tinh tấn,Ý Ta được hoan hỷ." (423-424)

Kinh Tinh Tấn tiếp theo nói lên sự cám dỗ của Ác ma. Khi Thái tử ngồi dưới cây Bồ đề tu hành, Ác ma đến gần, nói lên giọng từ mẫn :

"Ngươi ốm, không dung sắcNhà ngươi gần chết rồi,Cả ngàn phần, ngươi chết;Chỉ một phần còn sống.Hãy sống, sống tốt hơn,Sẽ làm các công đức." (426-427)

Thái tử trả lời từ tốn, nhưng không kém phần nghị lực :

"Bà con ác phóng dật,Ngươi đến đây làm gì?Với công đức nhỏ bé,Ta đâu có cần đến!Ðây có tín, tinh tấn,Và Ta có trí tuệ,Như vậy Ta tinh tấnSao ngươi hỏi Ta sống." (431-432)

Và Thái tử nói lên quyết tâm chiến đấu của mình :

"Ôi này Ma Nu Ci!Ðây là quân đội ngươi,Ðây quân đội chiến trậnCủa giòng họ Kanhà,Kẻ nhát, không thắng ngươiAi thắng ngươi được lạc.Ta mang cỏ MunjaVững thay, đáng đời sốngThà Ta chết chiến trậnTốt hơn sống thất bại." (439-440)

Và cuối cùng, Ác ma thất bại trước dũng chí của Thái tử và vừa bỏ đi vừa than:

"Bảy năm ta bước theoChân theo chân Thế Tôn,Không tìm được lỗi lầmNói Thế Tôn chánh niệm,Như quạ bay xung quanh,Hòn đá như đống mỡ.""Có thể có gì mềm?Có thể có gì ngọt?Không tìm được vị ngọtQuạ từ đó bay đi!Như quạ mổ hòn đáTa bỏ Gotama." (446-448)

Câu chuyện thứ ba nói về ẩn sĩ Asita (A Tư Ðà) đoán tướng cho Thái tử. Asita thấy Chư thiên vui mừng liền hỏi duyên cớ. Chư thiên đáp :

"Tại xứ Lâm tì niTrong làng các Thích Ca,Có sanh vị Bồ tátBáu tối thắng, vô tỷ.Ngài sanh, đem an lạcHạnh phúc cho loài người,Do vậy chúng tôi mừngTâm vô cùng hoan hỷ.Ngài, chúng sanh tối thượngNgài, loài người tối thắng,Bậc Ngưu Vương loài ngườiThượng Thủ mọi sanh loại.Ngài sẽ chuyển Pháp luân,Trong khu rừng ẩn sĩ,Rống tiếng rống sư tử,Hùng mạnh, nhiếp loài thú." (683-684)

Ðạo sư Asita liền vội vàng đi đến Kapilavatthu để được chiêm ngưỡng Thái tử.

"Sau khi thấy Thái tử,Chói sáng như lửa ngọn,Thanh tịnh như Sao ngưuVận hành giữa hư khôngSáng chiếu như mặt trờiGiữa trời thu mây tịnhẨn sĩ tâm hoan hỷÐược hỷ lạc rộng lớn." (687)

Khi thấy Thái tử chói sáng như mặt trời, khi nghĩ đến viễn ảnh chánh pháp được tuyên thuyết, nghĩ đến phận mình già yếu, A Tư Ðà đã phát khóc.

"Khi vị ấy nghĩ đếnSố mệnh của tự mình,Số mệnh không tốt đẹp,Vị ấy rơi nước mắt"... (691)

Trước sự lo lắng của các vị Thích Ca, ẩn sĩ A Tư Ðà giải tỏa mối lo lắng:

"Thấy họ Thích lo lắngVị ẩn sĩ trả lời:Ta không thấy bất hạnhXảy đến cho Thái tửÐối với (Thái tử) ấy,Chướng ngại sẽ không có.Vị này không hạ liệt,Chớ có lo lắng gì.Thái tử này sẽ chứngTối thượng quả Bồ đề,Sẽ chuyển bánh xe PhápThấy thanh tịnh tối thắngVì lòng từ thương xót,Vì hạnh phúc nhiều người,Và đời sống Phạm hạnhÐược truyền bá rộng rãiThọ mạng ta ở đờiCòn lại không bao nhiêuÐến giữa đời sống Ngài,Ta sẽ bị mệnh chung.Ta sẽ không nghe PhápBậc tinh cần vô tỷDo vậy ta sầu não,Bất hạnh và khổ đau." (692-694)

*

Yếu tố thứ tư xác nhận sự cổ kính của Kinh Tập này là một số câu văn, một số ví dụ, một số hình ảnh được diễn tả, đã trở thành những câu cách ngôn dân gian.

Biển lớn thì im lặng. Khe nước thời chảy ồn. Cái gì trống kêu to. Cái gì đầy thì yên lặng. Những ví dụ này cho chúng ta thấy những kẻ ít hiểu biết thì hay nói nhiều, những kẻ hiểu biết nhiều thời thường im lặng như 2 câu kệ sau đây :

"Hãy học các giòng nước,Từ khe núi vực sâuNước khe núi chảy ồnBiển lớn đầy im lặng." (720)

"Cái gì trống kêu to,Cái gì đầy, im lặng,Ngu như ghè vơi nướcBậc Trí như ao đầy." (721)

Với những kẻ hay nói, họa sẽ tự miệng sanh, như câu kệ khéo diễn tả dưới đây:

"Phàm con người đã sanh,Sanh với búa trong miệng,Kẻ ngu khi nói bậy,Tự chặt đứt lấy mình." (657)

Hình ảnh sau đây, có vẻ trào phúng, nói đến đàn quạ thấy hòn đá lầm tưởng là miếng thịt mỡ, đến mổ để tìm cái gì ngọt, khi mổ xong biết mình lầm liền bay đi. Câu kệ châm biếm Ác ma đi theo đức Phật để tìm cơ hội hại Ngài, cuối cùng hại Ngài không được nên bỏ đi.

"Như quạ bay xung quanhHòn đá như đống mỡ."Có thể có gì mềm?""Có thể có gì ngọt?" (447)

"Không tìm được gì ngọtQuạ từ đó bay điNhư quạ mổ hòn đáTa bỏ Gotama." (448)

Một câu kệ nữa nói đến sóng biển không sanh ở giữa biển đại dương, cho chúng ta biết, kẻ đã giải thoát bao giờ cũng trầm tĩnh yên lặng, như bài kệ sau đây:

"Như chính giữa trung ươngCủa biển cả đại dương,Sóng biển không có sanh,Biển hoàn toàn đứng lặngCũng vậy, vị tỷ kheo,Ðứng lặng không giao độngKhông có sự bồng bộtNáo nức ở giữa đời." (920)

Ðức Phật khuyên các người xuất gia, nên sống riêng một mình tinh tấn tu hành, như con tê giác chỉ có một sừng, sống một mình trong rừng.

"Do thân cận giao thiệpThân ái từ đấy sanh,Tùy thuận theo thân ái,Khổ này có thể sanh.Nhìn thấy những nguy hại,Do thân ái sanh khởi,Hãy sống riêng một mìnhNhư tê ngưu một sừng". (36)

"Như nai trong núi rừngKhông gì bị trói buộc,Tự đi chỗ nó muốnÐể tìm kiếm thức ăn,Như các bậc hiền tríThấy tự do giải thoát,Hãy sống riêng một mìnhNhư tê ngưu một sừng." (37)

*

Khi đức Phật thuyết pháp, giới thiệu đạo mới của Ngài, Ngài phải đương đầu với hai hệ thống xã hội rất hùng mạnh đang ngự trị trên xã hội Ấn Ðộ bấy giờ, tức là tổ chức Sa môn và tổ chức Bà la môn. Mỗi hệ thống có một số giáo chủ cầm đầu với hội chúng, với chủ thuyết, với phương pháp tu hành sai biệt và nhiều khi mâu thuẫn nhau. Ðức Phật đã mạnh dạn loại bỏ những gì Ngài xem là trở ngại cho con người giác ngộ và giải thoát, và tự mình vạch ra một con đường mới mẻ đặc biệt của Ngài.

Trước hết, đức Phật không chấp nhận đời sống người tu hành mà còn đoán số, đoán mộng, bói toán, ăn các đồ ăn do kệ tụng đem lại :

"Ta không có thọ dụngÐồ ăn từ kệ tụng,Hỡi này Bà la môn,Ðây không phải là pháp,Của những người có trí.Chư Phật đều từ bỏ,Ca hát các bài kệ." (480)

"Chớ có dùng bùa chú,Anthava Vedà,Chớ tổ chức đoán mộng,Coi tướng và xem sao,Mong rằng đệ tử Ta,Không đoán tiếng thú kêuKhông chữa bệnh không sanh,Không hành nghề lang băm." (927)

Ðức Phật cũng không chấp nhận cầu mong điềm lành. Các chư Thiên hỏi đức Phật làm thế nào được điềm lành (Mangalam), đức Phật trả lời bằng 48 hành động tốt, vì chỉ có hành động lành là điềm lành tối thượng, như kinh Mangala sutta đã khéo diễn tả :

"Không thân cận kẻ nguNhư gần gũi bậc trí,Ðảnh lễ người đáng lễLà điềm lành tối thượng." (259)

"Học nhiều nghề nghiệp giỏi,Khéo huấn luyện, học tậpNói những lời khéo nói.Là điềm lành tối thượng." (261)

"Hiếu dưỡng mẹ và chaNuôi dưỡng vợ và conLàm nghề không rắc rối,Là điềm lành tối thượng." (262)

"Bố thí, hành đúng pháp,Săn sóc các bà con,Làm nghiệp, không lỗi lầm,Là điềm lành tối thượng." (263)

"Chấm dứt, từ bỏ ác,Chế ngự đam mê rượu,Trong pháp không phóng dật,Là điềm lành tối thượng." (264)

"Kính lễ và hạ mìnhBiết đủ và biết ơnÐúng thời, nghe chánh phápLà điềm lành tối thượng." (265)

Như vậy, đức Phật bác bỏ sự tin tưởng ở điềm lành và khuyến khích làm các hạnh lành, vì các hạnh lành là điềm lành tối thượng.

Thêm một bước nữa, đức Phật không chấp nhận quan điểm của các Bà la môn, tin tưởng ở thuyết thọ sanh tử cho mình là giai cấp đáng tôn trọng nhất, chỉ vì sanh ra từ miệng Phạm thiên và do vậy các giai cấp Sát đế lỵ, Phệ xá và Thủ đà phải tôn trọng phục vụ giai cấp Bà la môn. Ðức Phật chống lại quan điểm thọ sanh này và tuyên bố rằng chỉ do hành động mới đánh giá giá trị con người, xem con người có đáng tôn trọng hay không.

"Bần tiện không vì sanh.Phạm chí không vì sanh,Do hành, thành bần tiện,Do hành thành Phạm chí." (136)

"Không phải do thọ sanh (*)Ðược gọi Bà la môn!Không phải do thọ sanh,Gọi phi Bà la mônChính do sự hành động,Ðược gọi Bà la mônChính do sự hành độngGọi phi Bà la môn." (Trung Bộ Kinh)

(*) thọ sanh: đẻ

Bước thêm một bước nữa, đức Phật bác bỏ các luận thuyết, các triết lý suông, vì chúng không thể đưa con người đến giải thoát, an tịnh. Có đến 63 luận thuyết thịnh hành trong thời đức Phật và đức Phật đều bác bỏ chúng, vì chúng chỉ gây thêm tranh luận :

"Các Sa môn tranh luận,Có đến 63 thuyết,Các ngôn thuyết văn tựY đây, các tưởng khởi." (538)

"Ai thiên trú trong kiến,Xem kiến ấy tối thắngỞ đời đặt kiến ấyVào địa vị tối thượng,Người ấy nói tất cả,Người khác là hạ liệt,Do vậy không vượt khỏiSự tranh luận ở đời." (796)

"Những ai muốn tranh luậnSau khi vào hội chúng,Chúng công kích lẫn nhau,Chúng gọi nhau là nguCái làm nó cống caoCũng là đất hại nó,Tuy vậy nó vẫn nóiLời cống cao kiêu mạn." (830)

"Không phải từ tri kiếnTừ truyết thống, từ tríKhông phải từ giới cấm,Thanh tịnh được đem đến." (839)

"Ngươi đã có cuồng tín,Không đưa đến thanh tịnhVì đã có thiên vị,Với tri kiến tác thành." (910)

Sau khi bác bỏ mê tín dị đoan, tà kiến, truyền thống, điềm lành, các luận thuyết, tế thần, tế lửa, v.v... Ðức Phật tự mình xây dựng con đường giải thoát, giác ngộ của mình. Và tập Suttanipàta sưu tầm cho chúng ta thấy, những bài kệ diễn tả đức Phật, sai khác với các ngoại đạo sư hiện tại như thế nào.

Trước hết, Ngài là bậc có mắt, cakkhumantu, có pháp nhãn thấy rõ tất cả :

"Ðức Phật thật có mắtÐối với tất cả pháp. (161)

"Bậc có mắt xuất hiệnÐời này và thiên giớiQuét sạch mọi u ám,Ðộc cư, chứng an lạc." (956)

"Vị ấy Chánh đẳng giácHỡi này Bà la môn,Bậc có mắt thấy đượcTrong tất cả các pháp." (992)

Ðức Phật là vị có một cái nhìn sáng suốt, một sự hiểu biết thấu triệt, thấy đau khổ trong các chủ thuyết, không chấp nhận chủ thuyết nào, tìm đến chân lý, Ngài thấy được sự an tịnh nội tâm.

"Với Ta không có nói!Ta nói như thế này,Sau khi quan sát kỹSự chấp thủ trong phápTrong tất cả tri kiến.Ta không có chấp trước,Ta thấy sự cất chứaTịch tịnh trong nội tâm." (837)

"Ai đã chặt sanh hữu,Không còn gieo giống thêm,Sanh hữu đã đoạn tận,Không còn muốn thọ sanh,Ðược gọi là ẩn sĩMột mình đi im lặng,Bậc ẩn sĩ đã thấyCon đường tịch tịnh ấy." (208)

Nếp sống đức Phật giới thiệu là một nếp sống của vị ẩn sĩ, Mâu ni, một vị đã từ bỏ gia đình sống không gia đình, không có trú xứ nào.

"Thân mật, sinh sợ hãi,Trú xứ sanh bụi bậmKhông trú xứ, không thânHình ảnh bậc ẩn sĩ." (207)

Một vị đã nhiếp phục tham ái và ái dục, không để ái dục chi phối.

"Vị ấy sống viễn lyMọi sự việc ở đời...Như hoa sen có gai,Sinh ra ở trong nước,Không bị nước và bùnMắc dính và thân ướt,Như vậy bậc ẩn sĩNói an tịnh, không tham,Không bị dục và đời,Mắc dính và thấm ướt." (845)

Một vị ẩn sĩ không có thiếu thốn, không có tri kiến, không có tà kiến, từ bỏ các chủ thuyết và không có tranh luận với ai ở đời.

"Chính đối với vị ấy,Ngã, phi ngã đều khôngVị ấy đã tẩy sạch,Mọi tà kiến ở đời." (787)

"Một số người nói rằngÐây mới là sự thật,Chứng nói các người khác,Là trống không giả dối.Do chấp thủ như vậy,Chúng tranh luận đấu tranh,Vì sao bậc Sa môn.Không cùng nói một lời." (88)

"Thường trú xả, chánh niệm,Không nghĩ mình bằng người.Hơn người thua kém ngườiVị ấy không bồng bột." (855)

Sống đời sống viễn ly, không tham đắm vật gì, vị ẩn sĩ sống đời sống vô hữu, không có "Ta"; không có "của Ta", thực hành hạnh vô ngã một cách tốt đẹp.

"Vị ấy không con cái,Thú vật, ruộng, tài sản,Không có gì nắm lấy,Là ta, là không ta." (858)

"Ai không có vật gì,Không có, không sầu muộn,Không đi đến các phápVị ấy gọi an tịnh." (861)

"Không nghĩ: "đây của tôi"Không nghĩ: "đây của người"Người không có tự ngãKhông sầu gì không ngã." (951)

Nhờ thực hành vô ngã, vị ẩn sĩ đi đến an tịnh trong nội tâm:

"Hãy giữ được an tịnhVề phía từ nội tâm,Ðã không có tự ngã,Từ đâu có vô ngã!" (919)

Và đích cuối cùng của con đường tu hành, đối với vị ẩn sĩ là "Niết bàn tịch tịnh".

"Từ bỏ lòng tham dục,Ðây tỷ kheo có tuệ,Chứng bất tử tịch tịnh,Niết bàn giới, thường trú!" (204)

*

Một điểm son đáng chú ý là tập này có một số kinh rất được phổ thông, và được chư Tăng các nước Nam Tông tụng đọc thường xuyên như kinh Ratanasutta (kinh Châu Báu), kinh Mangalasutta (kinh Ðiềm Lành) và kinh Mettasutta (kinh Từ Bi). Ngoài ra có nhiều bài kinh ngắn gọn, ý tứ hàm xúc, tán thán hạnh ẩn sĩ làm nổi bật đặc điểm của kinh này là tán dương ở đời sống của vị xuất gia tầm đạo, như kinh Rắn, kinh Vị ẩn sĩ, kinh Ràhula, kinh Dhammika, kinh Nàlaka, kinh Paràbhida, kinh Tuvataka, kinh Attadanda, kinh Sàriputta. Những kinh này phần lớn đề cập đến hạnh ẩn sĩ, và như vậy làm nổi bật bối cảnh an tịnh tu hành mà Kinh Tập này đề cao một cách đặc biệt.

Hòa Thượng Thích Minh Châu